Cả nhà nên biết
Chia sẻ bởi đỗ khắc hưởng |
Ngày 10/10/2018 |
61
Chia sẻ tài liệu: cả nhà nên biết thuộc Tiếng Anh 6
Nội dung tài liệu:
Bệnh học ngoại khoa viêm ruột thừa cấp
Giải phẫu và chức năng ruột thừa
Ruột thừa lần đầu tiên nhìn thấy được trong quá trình phát triển của phôi thai là vào tuần lễ thứ 8 của thai kỳ, có hình ảnh như một chỗ nhô lên ở phần cuối của manh tràng. Trong cả giai đoạn phát triển trước và sau sinh, tốc độ phát triển của manh tràng vượt xa tốc độ phát triển của ruột thừa, nó làm di lệch vị trí của ruột thừa đi vào trong và xuống dưới van hồi manh tràng. Mối liên hệ giữa gốc ruột thừa và manh tràng vẫn hằng định, trong khi đó có thể thấy đầu của ruột thừa ở sau manh tràng, tiểu khung, dưới manh tràng, trước hồi tràng, hoặc ở quanh đại tràng phải..
Trong nhiều năm, ruột thừa được xem như là một cơ quan vết tích không có chức năng. Hiện nay người ta đã nhận thấy rằng ruột thừa là một cơ quan miễn dịch, nó tham gia tích cực vào sự chế tiết globulin miễn dịch (Ig), đặc biệt là IgA.
Mặc dù ruột thừa là một thành phần phối hợp giữa ruột với hệ thống tổ chức bạch huyết, nhưng chức năng của nó không quan trọng và cắt ruột thừa
không đi kèm theo bất kỳ yếu tố nào làm thuận lợi cho quá trình nhiễm khuẩn hay bất kỳ biểu hiện nào về suy giảm miễn dịch. Tổ chức bạch huyết lần đầu tiên hiện diện ở ruột thừa là vào tuần lễ thứ hai sau sinh. Số lượng tổ chức gia tăng trong suốt giai đoạn dậy thì, vẫn còn duy trì như vậy trong thập kỷ kế tiếp và sau đó bắt đầu giảm đều đặn theo tuổi. Sau 60 tuổi, thực sự không còn tổ chức bạch huyết trong ruột thừa, và thường có tắc hoàn toàn lòng ruột thừa
Nguyên nhân và sinh lý bệnh của ruột thừa viêm cấp
Tắc nghẽn lòng ruột thừa là yếu tố gây bệnh nổi bật nhất trong viêm ruột thừa cấp. Sỏi phân là nguyên nhân gây tắc ruột thừa hay gặp. ít gặp hơn là do phì đại mô bạch huyết; có thể do chất baryt bị cô đặc lại khi chụp X quang trước đây; do rau và quả hạt; do giun đũa.
Một chuỗi sự kiện xảy ra sau khi tắc lòng ruột thừa như sau: vật tắc nghẽn ở gốc sẽ tạo ra sự tắc nghẽn một quai kín trong khi sự bài tiết của niêm mạc ruột thừa vẫn tiếp tục làm cho ruột thừa căng ra. Thể tích lòng ruột thừa bình thường chỉ khoảng 0,1ml. Nó không có một lòng ống thực sự. Sự tiết của niêm mạc ruột thừa chỉ khoảng 0,5ml có thể làm cho áp lực lòng ruột thừa tăng đến khoảng 60cm H2O. Sự căng to của ruột thừa kích thích lên đầu mút thần kinh hướng tâm mang cảm giác đau tạng, nó gây triệu chứng đau mơ hồ, âm ỉ, lan toả ở giữa bụng hoặc phía dưới của vùng thượng vị. Nhu động ruột cũng bị kích thích do sự căng giãn đột ngột đôi khi có thể tạo ra cơn co thắt.
Niêm mạc đường tiêu hoá (kể cả ruột thừa) rất nhạy với sự thiếu máu. Do vậy nó mất đi tính toàn vẹn của niêm mạc ngay trong giai đoạn đầu của quá trình này. Điều đó tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào lớp sâu hơn. Sự căng giãn tiếp diễn sẽ ảnh hưởng đến áp lực của tiểu ĐM, vùng mà có nguồn cung cấp máu kém nhất sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất: diện nhồi máu có hình bầu dục xuất hiện ở bờ tự do. Khi căng giãn vi khuẩn xâm nhập, suy giảm cung cấp máu và sự nhồi máu tiếp diễn sẽ gây thủng ruột thừa. Thường là đi qua một trong những vùng bị nhồi máu ở bờ tự do của ruột thừa.
Vi khuẩn học trong viêm ruột thừa: Người ta đã tìm thấy nhiều vi khuẩn kỵ khí, ái khí hay tuỳ ý từ dịch thu được trong ổ phúc mạc, dịch áp xe và tổ chức ruột thừa ở những bệnh nhân bị viêm ruột thừa hoại thư hay thủng. Trung bình có khoảng 10 chủng vi khuẩn khác nhau được phát hiện trên một mẫu nghiệm. Trong hầu hết mẫu nghiệm, người ta đã phân lập được Bacteroides fragilis và E. coli. Chủng vi khuẩn hay gặp khác là Streptococcus (80%), Pseudomonas (40%), Bacteroides splanchnicus (40%) và Lactobacillus (30%). Nghiên cứu vi khuẩn học ở thành ruột thừa của trẻ em cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa khuẩn chí của ruột thừa bình thường và ruột thừa bị viêm cấp. Bacteroides fragilis và E. coli và Streptococcus là những vi khuẩn được phân lập phổ biến nhất. Người ta đã ghi nhận được viêm ruột thừa phối hợp với Cytomegalovirus ở những bệnh nhân bị AIDS.
Triệu chứng và chẩn đoán
Cơ năng
Đau bụng: Đây là triệu chứng đầu tiên của viêm ruột thừa cấp. Về kinh điển thì đau bụng bắt đầu lan toả ở vùng thượng vị và vùng rốn. Đau vừa phải, không thay đổi, đôi khi có những cơn co thắt trội lên
Giải phẫu và chức năng ruột thừa
Ruột thừa lần đầu tiên nhìn thấy được trong quá trình phát triển của phôi thai là vào tuần lễ thứ 8 của thai kỳ, có hình ảnh như một chỗ nhô lên ở phần cuối của manh tràng. Trong cả giai đoạn phát triển trước và sau sinh, tốc độ phát triển của manh tràng vượt xa tốc độ phát triển của ruột thừa, nó làm di lệch vị trí của ruột thừa đi vào trong và xuống dưới van hồi manh tràng. Mối liên hệ giữa gốc ruột thừa và manh tràng vẫn hằng định, trong khi đó có thể thấy đầu của ruột thừa ở sau manh tràng, tiểu khung, dưới manh tràng, trước hồi tràng, hoặc ở quanh đại tràng phải..
Trong nhiều năm, ruột thừa được xem như là một cơ quan vết tích không có chức năng. Hiện nay người ta đã nhận thấy rằng ruột thừa là một cơ quan miễn dịch, nó tham gia tích cực vào sự chế tiết globulin miễn dịch (Ig), đặc biệt là IgA.
Mặc dù ruột thừa là một thành phần phối hợp giữa ruột với hệ thống tổ chức bạch huyết, nhưng chức năng của nó không quan trọng và cắt ruột thừa
không đi kèm theo bất kỳ yếu tố nào làm thuận lợi cho quá trình nhiễm khuẩn hay bất kỳ biểu hiện nào về suy giảm miễn dịch. Tổ chức bạch huyết lần đầu tiên hiện diện ở ruột thừa là vào tuần lễ thứ hai sau sinh. Số lượng tổ chức gia tăng trong suốt giai đoạn dậy thì, vẫn còn duy trì như vậy trong thập kỷ kế tiếp và sau đó bắt đầu giảm đều đặn theo tuổi. Sau 60 tuổi, thực sự không còn tổ chức bạch huyết trong ruột thừa, và thường có tắc hoàn toàn lòng ruột thừa
Nguyên nhân và sinh lý bệnh của ruột thừa viêm cấp
Tắc nghẽn lòng ruột thừa là yếu tố gây bệnh nổi bật nhất trong viêm ruột thừa cấp. Sỏi phân là nguyên nhân gây tắc ruột thừa hay gặp. ít gặp hơn là do phì đại mô bạch huyết; có thể do chất baryt bị cô đặc lại khi chụp X quang trước đây; do rau và quả hạt; do giun đũa.
Một chuỗi sự kiện xảy ra sau khi tắc lòng ruột thừa như sau: vật tắc nghẽn ở gốc sẽ tạo ra sự tắc nghẽn một quai kín trong khi sự bài tiết của niêm mạc ruột thừa vẫn tiếp tục làm cho ruột thừa căng ra. Thể tích lòng ruột thừa bình thường chỉ khoảng 0,1ml. Nó không có một lòng ống thực sự. Sự tiết của niêm mạc ruột thừa chỉ khoảng 0,5ml có thể làm cho áp lực lòng ruột thừa tăng đến khoảng 60cm H2O. Sự căng to của ruột thừa kích thích lên đầu mút thần kinh hướng tâm mang cảm giác đau tạng, nó gây triệu chứng đau mơ hồ, âm ỉ, lan toả ở giữa bụng hoặc phía dưới của vùng thượng vị. Nhu động ruột cũng bị kích thích do sự căng giãn đột ngột đôi khi có thể tạo ra cơn co thắt.
Niêm mạc đường tiêu hoá (kể cả ruột thừa) rất nhạy với sự thiếu máu. Do vậy nó mất đi tính toàn vẹn của niêm mạc ngay trong giai đoạn đầu của quá trình này. Điều đó tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào lớp sâu hơn. Sự căng giãn tiếp diễn sẽ ảnh hưởng đến áp lực của tiểu ĐM, vùng mà có nguồn cung cấp máu kém nhất sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất: diện nhồi máu có hình bầu dục xuất hiện ở bờ tự do. Khi căng giãn vi khuẩn xâm nhập, suy giảm cung cấp máu và sự nhồi máu tiếp diễn sẽ gây thủng ruột thừa. Thường là đi qua một trong những vùng bị nhồi máu ở bờ tự do của ruột thừa.
Vi khuẩn học trong viêm ruột thừa: Người ta đã tìm thấy nhiều vi khuẩn kỵ khí, ái khí hay tuỳ ý từ dịch thu được trong ổ phúc mạc, dịch áp xe và tổ chức ruột thừa ở những bệnh nhân bị viêm ruột thừa hoại thư hay thủng. Trung bình có khoảng 10 chủng vi khuẩn khác nhau được phát hiện trên một mẫu nghiệm. Trong hầu hết mẫu nghiệm, người ta đã phân lập được Bacteroides fragilis và E. coli. Chủng vi khuẩn hay gặp khác là Streptococcus (80%), Pseudomonas (40%), Bacteroides splanchnicus (40%) và Lactobacillus (30%). Nghiên cứu vi khuẩn học ở thành ruột thừa của trẻ em cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa khuẩn chí của ruột thừa bình thường và ruột thừa bị viêm cấp. Bacteroides fragilis và E. coli và Streptococcus là những vi khuẩn được phân lập phổ biến nhất. Người ta đã ghi nhận được viêm ruột thừa phối hợp với Cytomegalovirus ở những bệnh nhân bị AIDS.
Triệu chứng và chẩn đoán
Cơ năng
Đau bụng: Đây là triệu chứng đầu tiên của viêm ruột thừa cấp. Về kinh điển thì đau bụng bắt đầu lan toả ở vùng thượng vị và vùng rốn. Đau vừa phải, không thay đổi, đôi khi có những cơn co thắt trội lên
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: đỗ khắc hưởng
Dung lượng: 514,59KB|
Lượt tài: 2
Loại file: docx
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)