Bài văn TM Con trâu quê mình.doc
Chia sẻ bởi Phạm Huy Hoạt |
Ngày 12/10/2018 |
35
Chia sẻ tài liệu: Bài văn TM Con trâu quê mình.doc thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
Bài văn thuyết minh: Con trâu quê mình
Đề:
Em hãy thuyết minh và nêu vai trò đăc biệt của con trâu với người nông dân ở làng quê Việt Nam.
Bài mẫu:
Từ bao đời nay, hình ánh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam quê mình. Hình tượng “CON TRÂU” in đậm trong ca dao tục ngữ dân gian nước ta:
- Con trâu là đầu cơ nghiệp
- Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày nợ cấy con trâu đi bừa.
Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hỏa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp, ngắn, bụng to. Da con trâu dày màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm mại. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc bộ móng guốc, họ nhai lại. Nghĩa là gặm cỏ rất nhiều rồi lúc nằm nghỉ mới nhai lại số thức ăn đó.
Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày. nhựa sống căng tràn trong từng bước đi vững chắc nhưng chậm chạp của trâu.
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng cho con người. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3-4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C 1,5- 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo xe, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 - 500 kg, đường tốt là 700 800 kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 – l mét khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. So với một số gia súc cùng được con người dùng sức kéo như bò, ngựa.. thì trâu hơn hẳn. Người dân có câu: “Trâu ho cũng bằng bò khỏe” là vì thế.
Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất gián dị, chỉ là cây cỏ hoặc rơn rạ...Bất kể đứng đâu thấy có ngọn cỏ là trâu đều gặm lấy gặm để, khi nằm nghỉ mới ợ lên nhai lại. Con trâu còn có một tập tính quý là rất nhớ đường, nhớ chủ, dù chủ chăn nó chỉ là chú bé nhỏ (gọi là “Mục đồng”). Do đó người nông dân còn coa câu:
“ Lạc đường theo chân chó
Lạc ngõ nắm đuôi trâu”
Về sự “thông minh” thì trâu có thể sánh ngang với ngựa và chó. Nghe nói thời cụ Tạ Duy Hiển, Đoàn Xiếc Trung ương có tiết mục “Trâu làm xiếc” rất độc đáo. Có một điều, nếu con trâu biết nói nó sẽ thanh minh về câu “ Đàn gảy tai trâu” mà ai đó gán cho nó. Bởi thực ra trâu cũng có “trí nhớ thính giác” khá tốt. Bằng chứng “phi vật thể” là trâu phân biệt và “nghiêm túc” nghe “khẩu lệnh” của chủ khi cày cần quặt sang bên phải hay bên trái chỉ với 2 từ “Vắt – diệt”. Ở miền núi người dân nuôi trâu hàng đàn và thả rông cho chạy khắp rừng, nhưng chiều đến chỉ cần nghe tiếng mõ của trâu đầu đàn là cả bày trâu lục tục kéo nhau về chuồng. Bằng chứng “Vật thể” là bức tranh dân gian con trâu nghênh tai thưởng thức tiếng sáo véo von của em bé mục đồng. Thời cha ông ta kháng chiển thì “CON TRÂU” trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Văn Bổng chia sẻ niềm vui- nỗi buồn với các chủ nhân không khác gì nhân vật chính của truyện.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có khả năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và...
Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu đã có mặt trong 12 con giáp. Con
Đề:
Em hãy thuyết minh và nêu vai trò đăc biệt của con trâu với người nông dân ở làng quê Việt Nam.
Bài mẫu:
Từ bao đời nay, hình ánh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam quê mình. Hình tượng “CON TRÂU” in đậm trong ca dao tục ngữ dân gian nước ta:
- Con trâu là đầu cơ nghiệp
- Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày nợ cấy con trâu đi bừa.
Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hỏa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp, ngắn, bụng to. Da con trâu dày màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm mại. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc bộ móng guốc, họ nhai lại. Nghĩa là gặm cỏ rất nhiều rồi lúc nằm nghỉ mới nhai lại số thức ăn đó.
Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày. nhựa sống căng tràn trong từng bước đi vững chắc nhưng chậm chạp của trâu.
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng cho con người. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3-4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C 1,5- 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo xe, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 - 500 kg, đường tốt là 700 800 kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 – l mét khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. So với một số gia súc cùng được con người dùng sức kéo như bò, ngựa.. thì trâu hơn hẳn. Người dân có câu: “Trâu ho cũng bằng bò khỏe” là vì thế.
Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất gián dị, chỉ là cây cỏ hoặc rơn rạ...Bất kể đứng đâu thấy có ngọn cỏ là trâu đều gặm lấy gặm để, khi nằm nghỉ mới ợ lên nhai lại. Con trâu còn có một tập tính quý là rất nhớ đường, nhớ chủ, dù chủ chăn nó chỉ là chú bé nhỏ (gọi là “Mục đồng”). Do đó người nông dân còn coa câu:
“ Lạc đường theo chân chó
Lạc ngõ nắm đuôi trâu”
Về sự “thông minh” thì trâu có thể sánh ngang với ngựa và chó. Nghe nói thời cụ Tạ Duy Hiển, Đoàn Xiếc Trung ương có tiết mục “Trâu làm xiếc” rất độc đáo. Có một điều, nếu con trâu biết nói nó sẽ thanh minh về câu “ Đàn gảy tai trâu” mà ai đó gán cho nó. Bởi thực ra trâu cũng có “trí nhớ thính giác” khá tốt. Bằng chứng “phi vật thể” là trâu phân biệt và “nghiêm túc” nghe “khẩu lệnh” của chủ khi cày cần quặt sang bên phải hay bên trái chỉ với 2 từ “Vắt – diệt”. Ở miền núi người dân nuôi trâu hàng đàn và thả rông cho chạy khắp rừng, nhưng chiều đến chỉ cần nghe tiếng mõ của trâu đầu đàn là cả bày trâu lục tục kéo nhau về chuồng. Bằng chứng “Vật thể” là bức tranh dân gian con trâu nghênh tai thưởng thức tiếng sáo véo von của em bé mục đồng. Thời cha ông ta kháng chiển thì “CON TRÂU” trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Văn Bổng chia sẻ niềm vui- nỗi buồn với các chủ nhân không khác gì nhân vật chính của truyện.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có khả năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và...
Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu đã có mặt trong 12 con giáp. Con
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Huy Hoạt
Dung lượng: 928,17KB|
Lượt tài: 0
Loại file: rar
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)