Bài 9. Chương trình địa phương (phần Văn)
Chia sẻ bởi Huỳnh Liên |
Ngày 08/05/2019 |
29
Chia sẻ tài liệu: Bài 9. Chương trình địa phương (phần Văn) thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG
NHÓM 4_9/8
NHÀ THƠ, NHÀ VĂN
CHẾ LAN VIÊN
A. TIỂU SỬ
Tên thật là Phan Ngọc Hoan.
Bút danh là Thạch Hãn ( Những bước đường tư tưởng của tôi) và Chàng Văn (Vào nghề , Nói chuyện văn thơ).
Sinh ngày 20/10/1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
Mất 19/6/1989 (16/5 năm Kỷ Tỵ)
- Bình Định- nơi ông học, và làm những bài thơ đầu tiên.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi.
17 tuổi, là học sinh năm 3 trường trung hoc Quy Nhơn.
Xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề “Điêu tàn”.
Ông cùng Hàn Mặc tử. Yến Lan, Quách Tấn được gọi là “Bàn thành tứ hữu của Bình Định.
- 1942, cho ra đời tập văn xuôi “Vàng sao” (triết luân về đời với mầu sắc siêu hình, huyền bí).
1945, CMTT thành công, ông làm biên tập cho các báo Quyết thắng của mặt trận Việt minh, báo Cứu quốc, Kháng chiến của liên minh khu IV.
1949 ở Tà Cơn (Quảng Trị), ông được kết nạp vào Đảng.
1954, ông tập kết ra bắc làm biên tập viên báo Văn học.
1956-1958, ông công tác ở phòng Ban tuyên huấn trung ương.
1939, học tại Hà Nội, sau đó vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học.
1958, trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (báo Văn nghệ).
Sau 1975, ông vào sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Thơ ông dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống.
Ông được nhà nược Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật .
Con gái ông- Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
1960-1975, thơ của ông vươn tới sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự.
1963, ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V, VI và ủy viên Ban văn hóa-giáo dục của quốc hội.
B. TÁC PHẨM:
Thơ
Xuân Chế Lan Viên
Điêu tàn (1937)
Gửi các anh (1954)
Ánh sáng và phù sa (1960)
Hoa ngày thường (1967)
Chim báo bão (1967)
Những bài thơ đánh giặc (1972)
Đối thoại mới (1973)
Ngày vĩ đại (1976)
Hoa trước lăng Người (1976)
Dải đất vùng trời (1976)
Hái theo mùa (1977)
Hoa trên đá (1984)
Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990)
Ta gửi cho mình (1986)
Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995)
Tuyển tập thơ chọn lọc
Con cò
Văn
Vàng sao (1942)
Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963)
Những ngày nổi giận (bút ký, 1966)
Bác về quê ta (tạp văn, 1972)
Giờ của đô thành (bút ký, 1977)
Nàng tiên trên mặt đất (1985)
Tiểu luận phê bình
Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952)
Nói chuyện thơ văn (1960)
Vào nghề (1962)
Phê bình văn học (1962)
Suy nghĩ và bình luận (1971)
Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976)
Nghĩ cạnh dòng thơ (1981)
Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)
Ngoại vi thơ (1987)
Nàng và tôi (1992)
PHẦN TRÌNH BÀY CỦA TỔ EM XIN KẾT THÚC
CÁM ƠN CÔ VÀ CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE
NHÓM 4_9/8
NHÀ THƠ, NHÀ VĂN
CHẾ LAN VIÊN
A. TIỂU SỬ
Tên thật là Phan Ngọc Hoan.
Bút danh là Thạch Hãn ( Những bước đường tư tưởng của tôi) và Chàng Văn (Vào nghề , Nói chuyện văn thơ).
Sinh ngày 20/10/1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
Mất 19/6/1989 (16/5 năm Kỷ Tỵ)
- Bình Định- nơi ông học, và làm những bài thơ đầu tiên.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi.
17 tuổi, là học sinh năm 3 trường trung hoc Quy Nhơn.
Xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề “Điêu tàn”.
Ông cùng Hàn Mặc tử. Yến Lan, Quách Tấn được gọi là “Bàn thành tứ hữu của Bình Định.
- 1942, cho ra đời tập văn xuôi “Vàng sao” (triết luân về đời với mầu sắc siêu hình, huyền bí).
1945, CMTT thành công, ông làm biên tập cho các báo Quyết thắng của mặt trận Việt minh, báo Cứu quốc, Kháng chiến của liên minh khu IV.
1949 ở Tà Cơn (Quảng Trị), ông được kết nạp vào Đảng.
1954, ông tập kết ra bắc làm biên tập viên báo Văn học.
1956-1958, ông công tác ở phòng Ban tuyên huấn trung ương.
1939, học tại Hà Nội, sau đó vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học.
1958, trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (báo Văn nghệ).
Sau 1975, ông vào sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Thơ ông dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống.
Ông được nhà nược Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật .
Con gái ông- Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
1960-1975, thơ của ông vươn tới sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự.
1963, ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V, VI và ủy viên Ban văn hóa-giáo dục của quốc hội.
B. TÁC PHẨM:
Thơ
Xuân Chế Lan Viên
Điêu tàn (1937)
Gửi các anh (1954)
Ánh sáng và phù sa (1960)
Hoa ngày thường (1967)
Chim báo bão (1967)
Những bài thơ đánh giặc (1972)
Đối thoại mới (1973)
Ngày vĩ đại (1976)
Hoa trước lăng Người (1976)
Dải đất vùng trời (1976)
Hái theo mùa (1977)
Hoa trên đá (1984)
Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990)
Ta gửi cho mình (1986)
Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995)
Tuyển tập thơ chọn lọc
Con cò
Văn
Vàng sao (1942)
Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963)
Những ngày nổi giận (bút ký, 1966)
Bác về quê ta (tạp văn, 1972)
Giờ của đô thành (bút ký, 1977)
Nàng tiên trên mặt đất (1985)
Tiểu luận phê bình
Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952)
Nói chuyện thơ văn (1960)
Vào nghề (1962)
Phê bình văn học (1962)
Suy nghĩ và bình luận (1971)
Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976)
Nghĩ cạnh dòng thơ (1981)
Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)
Ngoại vi thơ (1987)
Nàng và tôi (1992)
PHẦN TRÌNH BÀY CỦA TỔ EM XIN KẾT THÚC
CÁM ƠN CÔ VÀ CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Huỳnh Liên
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)