Bài 9. Chương trình địa phương (phần Văn)
Chia sẻ bởi Vũ Thị Thơm |
Ngày 07/05/2019 |
23
Chia sẻ tài liệu: Bài 9. Chương trình địa phương (phần Văn) thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG
MỘT SỐ TÁC GIẢ,
TÁC PHẨM Ở
BÌNH DƯƠNG
TỔ 3
TRƯỜNG THCS-BÌNH AN
PHAN VĂN HÙM
PHAN VĂN HÙM
Phan Văn Hùm (9 tháng 4 năm 1902 - năm 1946), bút danh Phù Dao, là một nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng, và là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ tạiViệt Nam.
sinh tại ấp Búng, làng An Thạnh, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương).
Ông có hai vợ, vợ chính là Dương Thị Lại (1905-1992), vợ thứ là Mai Huỳnh Hoa (1910-1987).
Sinh trong một gia đình nông dân, buổi đầu Phan Văn Hùm theo học ở Sài Gòn, đậu bằng Thành chung, dạy học một năm, ra Hà Nội học trường Cao đẳng Công chính (1924-1925) rồi được bố trí làm tham tá công chính ở Huế.
Đến năm 1927, ông bị buộc thôi việc vì ủng hộ nữ sinh trường Đồng Khánh (Huế) bãi khóa nhân đám tang Phan Châu Trinh
Đầu năm 1946, khi Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ, Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng giết tại miền Đông Nam Bộ
MỘT SỐ TÁC PHẨM :
Nỗi lòng Đồ Chiểu, Đỗ Phương Quế xuất bản 1938; in lần 2, Tân Việt, 1957.
Phật giáo triết học, Tân Việt, 1942
Vương Dương Minh, Tân Việt, 1944
Ngồi tù Khám Lớn, lần 2, Dân tộc, 1957
Tiền bạc (Khảo cứu về vần đề tiền tệ), Tân Việt, 1945
HUỲNH VĂN NGHỆ
HUỲNH VĂN NGHỆ
Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977) là một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy quân sự Việt Nam, nổi tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được nhiều người truyền tụng. Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, vì những đóng góp trong thời kỳ chống Pháp và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Ông sinh ngày 2 tháng 2 năm 1914 tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương), trong một gia đình nghèo.
Trước khi sinh ra ông, gia đình ông từng sống du cư bằng ghe trên sông Bao Ngược.
HUỲNH VĂN NGHỆ
Huỳnh Văn Nghệ là con thứ 7 trong gia đình nên còn gọi là Tám Nghệ. Trừ 2 người đầu mất tích do bão lũ năm 1903, và người thứ ba và thứ sáu mất sớm, ông có một người anh thứ tư (Năm Thọ) và người chị thứ năm (Sáu Yển) và 2 người em út (Chín Lưỡng và Mười Mẫn).
Tuy nhà nghèo, nhưng ông được hưởng một nền giáo dục rất tốt, được cha dạy dỗ về căn bản cả văn lẫn võ, được gia đình chăm lo ăn học đến nơi đến chốn. Ông được cho đi học bậc tiểu học tại làng Mỹ Lộc, quận Tân Uyên và học rất giỏi.
Nhờ đó, năm 1928, sau khi tốt nghiệp bậc tiểu học, ông đã giành được học bổng bậc trung học của Trường Petrus Ký. Sau khi lên Sài Gòn học ít lâu, cha ông tử nạn bởi bị rắn độc cắn. Toàn bộ gia đình ông trông nhờ vào người mẹ buôn bán nhỏ và người anh làm thầy giáo ở quê nhà.
MỘT SỐ TÁC PHẨM :
NHỚ BẮC
Ai về Bắc, ta đi với
Thăm lại non sông giống
Lạc HồngTừ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Ai nhớ người chăng?Ôi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương!
Vẫn nghe tiếng hát trời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn nhớ, vẫn thương mùa vải đỏ
Mỗi lần man mác hương sầu riêng...
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền,
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm!
Muốn trở về quê, mơ cánh tiên.
Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồn xưa Linh Quy hỡi
Bao giờ mang kiếm trả dân ta?
Huỳnh Văn Nghệ
(Ga Sài Gòn, 1940)
Tôi là người lăn lóc giữa đường trần,
Không phân biệt lúc mài gươm múa bút.
Đời chiến sĩ máu hoà lệ, mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi
Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác.
Trên lưng ngựa múa gươm và ca hát,
Lòng ta say chiến trận đến thành thơ…
Không chỉ là một chỉ huy quân sự tài ba, ông còn là một nhà thơ có những vần thơ in đậm trong tâm trí người đọc. Đồng đội và nhân dân miền Nam gọi ông là "Thi tướng rừng xanh".
Ở Huỳnh Văn Nghệ nhiệm vụ chiến sĩ và sứ mệnh thi sĩ đã hoà quyện với nhau
Thơ của ông giản dị mà gần gũi, đầy cảm hứng mà sâu sắc, hồn nhiên mà xúc động. Bài thơ Nhớ Bắc của ông làm tại Chiến khu Đ năm 1946 với 4 câu tuyệt bút mở đầu đã được nhiều thế hệ người Việt Nam truyền tụng
Và cuộc đời của ông được dựng thành phim
Bộ phim xoay quanh cuộc đời của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, nhà quân sự và nhà thơ của vùng Đông Nam Bộ. Phim được chuyển thể từ hai tác phẩm Thi tướng chiến khu xanh của nhà văn Nguyên Hùng và Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ.
Bộ phim kể về cuộc đời của Huỳnh Văn Nghệ từ lúc nhỏ đến lúc tập kết ra Bắc.
Và diễn viên Huỳnh Đông thủ vai ông
TÓM TẮT
I-TIỂU SỬ:
Huỳnh Văn Nghệ (2/2/1914)quê tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
Là nhà hoạt động chính trị và là một chỉ huy quân sự Việt Nam, nổi tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được nhiều người truyền tụng.
Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Giải thưởng Nhà nước nước về Văn học nghệ thuật
II-TÁC PHẨM:
Tác phẩm chính:
Nhớ Bắc (1942)
Lịch sử quê hương(1954)
NGUYỄN NGUY ANH
NGUYỄN NGUY ANH
Bút danh: Nguyễn Thy Ca Dao, Anh Nhi.
- Quê quán: Bình Định. 15 năm dạy học ở quê nhà. Hiện sống và làm việc tại Bình Dương.- Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Dương.
Đoạt giải thưởng thơ Huỳnh Văn Nghệ lần 2 (2000).
Nguyễn Nguy Anh sinh năm 1954, quê quán Phước Lộc, Tuy Phước, Bình Định, hiện ở Khu 2 Phú Thọ (Thủ Dầu Một, Bình Dương). Các bút danh: Anh Nhi, Nguyễn Thị Ca Dao, Nguyễn Tiểu Thư.
Ông là Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương, trưởng bút Nhóm Dòng Sông Xanh, Gia Đình Áo Trắng, Phượng Hồng. Giải thưởng Huỳnh Văn Nghệ lần 2 (2000).
MỘT SỐ TÁC PHẦM :
Một thoáng hương xưa (Nhà Xuất bản Đồng Nai, 1996)
Thơ Nhà Giáo tập 2 (in chung, NXB Trẻ, 1998)
Một thời kỷ niệm (NXB Hội Nhà Văn, 1999)
Khoảng trời mây trắng bay (Hội VHNT Bình Dương, 1999)
Có bài đăng trên các báo, tập chí địa phương và trung ương...
BÌNH NGUYÊN LỘC
BÌNH NGUYÊN LỘC
Bình Nguyên Lộc (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ trong giai đoạn 1945-1975. Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh...
Bình Nguyên Lộc sinh tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu đã có mười đời sống tại Tân Uyên.
Cha là ông Tô Phương Sâm (1878-1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (hay Mẹo) (1876-1972). Theo giấy khai sinh, Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915.
Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin
BÌNH NGUYÊN LỘC
TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT:
Câu dầm, truyện ngắn, tuần báo Thanh niên - 1943, Sài Gòn
Nhốt gió, tập truyện, Nhà xuất bản Thời Thế - 1950, Sài Gòn
Đò dọc, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Bến Nghé - 1958, Sài Gòn
Gieo gió gặt bão, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Bến Nghé - 1959, Sài Gòn
Tân Liêu Trai, tập truyện (ký bút danh Phong Ngạn), Nhà xuất bản Bến Nghé - 1959, Sài Gòn
Ký thác, tập truyện, Nhà xuất bản Bến Nghé - 1960, Sài Gòn
Nhện chờ mối ai, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Nam Cường - 1962, Sài Gòn
Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Bóng ai qua ngoài song cửa, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Bí mật của nàng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Hoa hậu Bồ Đào, Nhà xuất bản Sống Mới - 1963, Sài Gòn
Mối tình cuối cùng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Nửa đêm trăng sụp, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Nam Cường - 1963, Sài Gòn
Tâm trạng hồng, tập truyện, Nhà xuất bản Sống Vui - 1963, Sài Gòn
Xô ngã bức tường rêu, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Sống Vui - 1963, Sài Gòn
Đừng hỏi tại sao, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Tia Sáng - 1965, Sài Gòn
Mùa thu nhớ tằm, tập truyện, Nhà xuất bản Phù Sa - 1965, Sài Gòn
Uống lộn thuốc tiên, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Miền Nam - 1965, Sài Gòn
Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc, tạp bút, Nhà xuất bản Thịnh Ký - 1966, Sài Gòn
Tình đất, tập truyện, Nhà xuất bản Thời Mới, 1966, Sài Gòn
Nụ cười nước mắt học trò, tập truyện, Nhà xuất bản Trương Gia - 1967, Sài Gòn
Quán Tai Heo, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Văn Xương - 1967, Sài Gòn
Thầm lặng, tập truyện, Nhà xuất bản Thụy Hương -1967, Sài Gòn
Diễm Phượng, tập truyện, Nhà xuất bản Thụy Hương - 1968, Sài Gòn
Đèn Cần Giờ - 1968, Sài Gòn
Một chàng hai nàng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thụy Hương - 1968, Sài Gòn
Sau đêm bố ráp, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thịnh Ký - 1968, Sài Gòn
Trăm nhớ ngàn thương, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Miền Nam - 1968, Sài Gòn
Khi Từ Thức về trần, truyện, Nhà xuất bản Văn Uyển - 1969, Sài Gòn
Nhìn xuân người khác, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Tiến Bộ - 1969, Sài Gòn
Món nợ thiêng liêng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Ánh Sáng - 1969, Sài Gòn
Cuống rún chưa lìa, tập truyện, Nhà xuất bản Lá Bối - 1969, Sài Gòn
Lương tâm kẻ trộm, truyện ngắn, tạp chí Hương Quê - 1971, Sài Gòn.
….
LÝ LAN
LÝ LAN
Lý Lan (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1957) là một nữ nhà văn, nhà thơ và dịch giả tiếng Anh của Việt Nam.
Lý Lan sinh ra tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Quê mẹ ở Lái Thiêu, quê cha ở huyện Triều Dương, thành phố Sán Đầu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tám năm đầu đời Lý Lan sống ở quê mẹ, sau khi mẹ mất thì gia đình về Chợ Lớn định cư.
Từ năm 1980 Lý Lan bắt đầu dạy ở trường Trung học Cần Giuộc (Long An), năm 1984 chuyển về trường Trung học Hùng Vương, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm1991 chuyển qua trường Trung học Lê Hồng Phong, năm 1995 sang dạy ở Đại học Văn Lang đến năm 1997 thì nghỉ dạy.
Lý Lan lập gia đình với Mart Stewart, một người Mỹ và hiện định cư ở cả hai nơi, Hoa Kỳ và Việt Nam.
Nơi Bình Yên Chim Hót (NXB Cà Mau, Cà Mau, 1986)
Chút Lãng Mạn Trong Mưa (NXB Trẻ, TP HCM, 1987)
Hội Lồng Đèn (NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1991)
Chiêm Bao Thấy Núi (NXB Trẻ, TP HCM, 1991)
Truyện (in chung với Nguyễn Thị Minh Ngọc và Nguyễn Hải Chí, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh 1992)
Những Người Lớn (NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1992)
Mưa Chuồn Chuồn (NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1993)
Chân Dung Người Hoa (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1994)
Đất Khách, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1995)
Bí Mật Của Tôi và Thằn Lằn Đen (NXB Trẻ, TP HCM,1996)
Lệ Mai, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1998)
Thơ (in chung với Thanh Nguyên và Lưu Thị Lương, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1998)
**Và thành công nhất trong phẩn dịch truyện tiêu biểu là:
Âm Phủ
Loạt truyện Harry Potter (đây là bộ truyện thành công nhất)
Những chuyện kể của Beedle người hát rong
TRẦN BÌNH DƯƠNG
TRẦN BÌNH DƯƠNG
Tiểu sử:
Trần Bình Dương (1954-8/4/2010)tên thật là Trần Minh Châu.
Dạy học,làm báo,sáng tác văn học.
Ủy viên BCH Hội Văn học
Nghệ thuật,Phó chủ tịch Thường trực Hội VHNT Bình Dương.
5 lần đọat giải nhất thơ trong và ngoài tỉnh (1972-1985)
Tác phẩm:
Tác phẩm chính
Bi kịch trắng (tập truyện ngắn)
Đi về phía mặt trời (thơ)
Linh hồn của quỷ (tiểu thuyết)
Củng cố bài học
AI ĐƯỢC GỌI LÀ THI TƯỚNG RỪNG XANH?
A. BÌNH NGUYÊN LỘC
B. NGUYỄN NHẬT ÁNH
C. TÔ HOÀI
D. HUỲNH VĂN NGHỆ
AI ĐƯỢC GỌI LÀ THI TƯỚNG RỪNG XANH?
A. BÌNH NGUYÊN LỘC
B. NGUYỄN NHẬT ÁNH
C. TÔ HOÀI
D. HUỲNH VĂN NGHỆ
AI LÀ DỊCH GIẢ BỘ TRUYỆN HARRY POTTER ?
A. NGUYÊN HỒNG
B. NGUYỄN DU
C. LÝ LAN
D. HỒ XUÂN HƯƠNG
AI LÀ DỊCH GIẢ BỘ TRUYỆN HARRY POTTER ?
A. NGUYÊN HỒNG
C. LÝ LAN
B. NGUYỄN DU
D. HỒ XUÂN HƯƠNG
NHÀ VĂN “TRẦN BÌNH DƯƠNG” TÊN THẬT LÀ GÌ?
A. TÔ VĂN TUẤN
B. TRẦN MINH CHÂU
C. LÊ HỒNG PHONG
D. NGUYỄN MINH CHÂU
NHÀ VĂN “TRẦN BÌNH DƯƠNG” TÊN THẬT LÀ GÌ?
A. TÔ VĂN TUẤN
B. TRẦN MINH CHÂU
C. LÊ HỒNG PHONG
D. NGUYỄN MINH CHÂU
BÚT DANH CỦA NGUYỄN NGUY ANH LÀ GÌ ?
A. NGUYỄN THI CA DAO
B. NGÔ TẤT TỐ
C. NGUYỄN ANH
D. THI ANH
BÚT DANH CỦA NGUYỄN NGUY ANH LÀ GÌ ?
A. NGUYỄN THI CA DAO
C. NGUYỄN ANH
B. NGÔ TẤT TỐ
D. THI ANH
AI LÀ LÃNH TỤ PHONG TRÀO CỘNG SẢN ĐỆ TỨ TẠI VIỆT NAM?
A. PHAN ĐĂNG LƯU
B. PHAN VĂN HÙM
C. TỐ HỮU
D. VÕ NGUYÊN GIÁP
AI LÀ LÃNH TỤ PHONG TRÀO CỘNG SẢN ĐỆ TỨ TẠI VIỆT NAM?
A. PHAN ĐĂNG LƯU
C. TỐ HỮU
B. PHAN VĂN HÙM
D. VÕ NGUYÊN GIÁP
Hết
Cảm ơn các bạn
MỘT SỐ TÁC GIẢ,
TÁC PHẨM Ở
BÌNH DƯƠNG
TỔ 3
TRƯỜNG THCS-BÌNH AN
PHAN VĂN HÙM
PHAN VĂN HÙM
Phan Văn Hùm (9 tháng 4 năm 1902 - năm 1946), bút danh Phù Dao, là một nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng, và là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ tạiViệt Nam.
sinh tại ấp Búng, làng An Thạnh, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương).
Ông có hai vợ, vợ chính là Dương Thị Lại (1905-1992), vợ thứ là Mai Huỳnh Hoa (1910-1987).
Sinh trong một gia đình nông dân, buổi đầu Phan Văn Hùm theo học ở Sài Gòn, đậu bằng Thành chung, dạy học một năm, ra Hà Nội học trường Cao đẳng Công chính (1924-1925) rồi được bố trí làm tham tá công chính ở Huế.
Đến năm 1927, ông bị buộc thôi việc vì ủng hộ nữ sinh trường Đồng Khánh (Huế) bãi khóa nhân đám tang Phan Châu Trinh
Đầu năm 1946, khi Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ, Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng giết tại miền Đông Nam Bộ
MỘT SỐ TÁC PHẨM :
Nỗi lòng Đồ Chiểu, Đỗ Phương Quế xuất bản 1938; in lần 2, Tân Việt, 1957.
Phật giáo triết học, Tân Việt, 1942
Vương Dương Minh, Tân Việt, 1944
Ngồi tù Khám Lớn, lần 2, Dân tộc, 1957
Tiền bạc (Khảo cứu về vần đề tiền tệ), Tân Việt, 1945
HUỲNH VĂN NGHỆ
HUỲNH VĂN NGHỆ
Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977) là một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy quân sự Việt Nam, nổi tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được nhiều người truyền tụng. Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, vì những đóng góp trong thời kỳ chống Pháp và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Ông sinh ngày 2 tháng 2 năm 1914 tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương), trong một gia đình nghèo.
Trước khi sinh ra ông, gia đình ông từng sống du cư bằng ghe trên sông Bao Ngược.
HUỲNH VĂN NGHỆ
Huỳnh Văn Nghệ là con thứ 7 trong gia đình nên còn gọi là Tám Nghệ. Trừ 2 người đầu mất tích do bão lũ năm 1903, và người thứ ba và thứ sáu mất sớm, ông có một người anh thứ tư (Năm Thọ) và người chị thứ năm (Sáu Yển) và 2 người em út (Chín Lưỡng và Mười Mẫn).
Tuy nhà nghèo, nhưng ông được hưởng một nền giáo dục rất tốt, được cha dạy dỗ về căn bản cả văn lẫn võ, được gia đình chăm lo ăn học đến nơi đến chốn. Ông được cho đi học bậc tiểu học tại làng Mỹ Lộc, quận Tân Uyên và học rất giỏi.
Nhờ đó, năm 1928, sau khi tốt nghiệp bậc tiểu học, ông đã giành được học bổng bậc trung học của Trường Petrus Ký. Sau khi lên Sài Gòn học ít lâu, cha ông tử nạn bởi bị rắn độc cắn. Toàn bộ gia đình ông trông nhờ vào người mẹ buôn bán nhỏ và người anh làm thầy giáo ở quê nhà.
MỘT SỐ TÁC PHẨM :
NHỚ BẮC
Ai về Bắc, ta đi với
Thăm lại non sông giống
Lạc HồngTừ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Ai nhớ người chăng?Ôi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương!
Vẫn nghe tiếng hát trời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn nhớ, vẫn thương mùa vải đỏ
Mỗi lần man mác hương sầu riêng...
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền,
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm!
Muốn trở về quê, mơ cánh tiên.
Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồn xưa Linh Quy hỡi
Bao giờ mang kiếm trả dân ta?
Huỳnh Văn Nghệ
(Ga Sài Gòn, 1940)
Tôi là người lăn lóc giữa đường trần,
Không phân biệt lúc mài gươm múa bút.
Đời chiến sĩ máu hoà lệ, mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi
Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác.
Trên lưng ngựa múa gươm và ca hát,
Lòng ta say chiến trận đến thành thơ…
Không chỉ là một chỉ huy quân sự tài ba, ông còn là một nhà thơ có những vần thơ in đậm trong tâm trí người đọc. Đồng đội và nhân dân miền Nam gọi ông là "Thi tướng rừng xanh".
Ở Huỳnh Văn Nghệ nhiệm vụ chiến sĩ và sứ mệnh thi sĩ đã hoà quyện với nhau
Thơ của ông giản dị mà gần gũi, đầy cảm hứng mà sâu sắc, hồn nhiên mà xúc động. Bài thơ Nhớ Bắc của ông làm tại Chiến khu Đ năm 1946 với 4 câu tuyệt bút mở đầu đã được nhiều thế hệ người Việt Nam truyền tụng
Và cuộc đời của ông được dựng thành phim
Bộ phim xoay quanh cuộc đời của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, nhà quân sự và nhà thơ của vùng Đông Nam Bộ. Phim được chuyển thể từ hai tác phẩm Thi tướng chiến khu xanh của nhà văn Nguyên Hùng và Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ.
Bộ phim kể về cuộc đời của Huỳnh Văn Nghệ từ lúc nhỏ đến lúc tập kết ra Bắc.
Và diễn viên Huỳnh Đông thủ vai ông
TÓM TẮT
I-TIỂU SỬ:
Huỳnh Văn Nghệ (2/2/1914)quê tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
Là nhà hoạt động chính trị và là một chỉ huy quân sự Việt Nam, nổi tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được nhiều người truyền tụng.
Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Giải thưởng Nhà nước nước về Văn học nghệ thuật
II-TÁC PHẨM:
Tác phẩm chính:
Nhớ Bắc (1942)
Lịch sử quê hương(1954)
NGUYỄN NGUY ANH
NGUYỄN NGUY ANH
Bút danh: Nguyễn Thy Ca Dao, Anh Nhi.
- Quê quán: Bình Định. 15 năm dạy học ở quê nhà. Hiện sống và làm việc tại Bình Dương.- Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Dương.
Đoạt giải thưởng thơ Huỳnh Văn Nghệ lần 2 (2000).
Nguyễn Nguy Anh sinh năm 1954, quê quán Phước Lộc, Tuy Phước, Bình Định, hiện ở Khu 2 Phú Thọ (Thủ Dầu Một, Bình Dương). Các bút danh: Anh Nhi, Nguyễn Thị Ca Dao, Nguyễn Tiểu Thư.
Ông là Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương, trưởng bút Nhóm Dòng Sông Xanh, Gia Đình Áo Trắng, Phượng Hồng. Giải thưởng Huỳnh Văn Nghệ lần 2 (2000).
MỘT SỐ TÁC PHẦM :
Một thoáng hương xưa (Nhà Xuất bản Đồng Nai, 1996)
Thơ Nhà Giáo tập 2 (in chung, NXB Trẻ, 1998)
Một thời kỷ niệm (NXB Hội Nhà Văn, 1999)
Khoảng trời mây trắng bay (Hội VHNT Bình Dương, 1999)
Có bài đăng trên các báo, tập chí địa phương và trung ương...
BÌNH NGUYÊN LỘC
BÌNH NGUYÊN LỘC
Bình Nguyên Lộc (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ trong giai đoạn 1945-1975. Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh...
Bình Nguyên Lộc sinh tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu đã có mười đời sống tại Tân Uyên.
Cha là ông Tô Phương Sâm (1878-1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (hay Mẹo) (1876-1972). Theo giấy khai sinh, Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915.
Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin
BÌNH NGUYÊN LỘC
TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT:
Câu dầm, truyện ngắn, tuần báo Thanh niên - 1943, Sài Gòn
Nhốt gió, tập truyện, Nhà xuất bản Thời Thế - 1950, Sài Gòn
Đò dọc, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Bến Nghé - 1958, Sài Gòn
Gieo gió gặt bão, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Bến Nghé - 1959, Sài Gòn
Tân Liêu Trai, tập truyện (ký bút danh Phong Ngạn), Nhà xuất bản Bến Nghé - 1959, Sài Gòn
Ký thác, tập truyện, Nhà xuất bản Bến Nghé - 1960, Sài Gòn
Nhện chờ mối ai, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Nam Cường - 1962, Sài Gòn
Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Bóng ai qua ngoài song cửa, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Bí mật của nàng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Hoa hậu Bồ Đào, Nhà xuất bản Sống Mới - 1963, Sài Gòn
Mối tình cuối cùng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thế Kỷ - 1963, Sài Gòn
Nửa đêm trăng sụp, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Nam Cường - 1963, Sài Gòn
Tâm trạng hồng, tập truyện, Nhà xuất bản Sống Vui - 1963, Sài Gòn
Xô ngã bức tường rêu, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Sống Vui - 1963, Sài Gòn
Đừng hỏi tại sao, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Tia Sáng - 1965, Sài Gòn
Mùa thu nhớ tằm, tập truyện, Nhà xuất bản Phù Sa - 1965, Sài Gòn
Uống lộn thuốc tiên, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Miền Nam - 1965, Sài Gòn
Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc, tạp bút, Nhà xuất bản Thịnh Ký - 1966, Sài Gòn
Tình đất, tập truyện, Nhà xuất bản Thời Mới, 1966, Sài Gòn
Nụ cười nước mắt học trò, tập truyện, Nhà xuất bản Trương Gia - 1967, Sài Gòn
Quán Tai Heo, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Văn Xương - 1967, Sài Gòn
Thầm lặng, tập truyện, Nhà xuất bản Thụy Hương -1967, Sài Gòn
Diễm Phượng, tập truyện, Nhà xuất bản Thụy Hương - 1968, Sài Gòn
Đèn Cần Giờ - 1968, Sài Gòn
Một chàng hai nàng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thụy Hương - 1968, Sài Gòn
Sau đêm bố ráp, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thịnh Ký - 1968, Sài Gòn
Trăm nhớ ngàn thương, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Miền Nam - 1968, Sài Gòn
Khi Từ Thức về trần, truyện, Nhà xuất bản Văn Uyển - 1969, Sài Gòn
Nhìn xuân người khác, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Tiến Bộ - 1969, Sài Gòn
Món nợ thiêng liêng, tiểu thuyết, Nhà xuất bản Ánh Sáng - 1969, Sài Gòn
Cuống rún chưa lìa, tập truyện, Nhà xuất bản Lá Bối - 1969, Sài Gòn
Lương tâm kẻ trộm, truyện ngắn, tạp chí Hương Quê - 1971, Sài Gòn.
….
LÝ LAN
LÝ LAN
Lý Lan (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1957) là một nữ nhà văn, nhà thơ và dịch giả tiếng Anh của Việt Nam.
Lý Lan sinh ra tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Quê mẹ ở Lái Thiêu, quê cha ở huyện Triều Dương, thành phố Sán Đầu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tám năm đầu đời Lý Lan sống ở quê mẹ, sau khi mẹ mất thì gia đình về Chợ Lớn định cư.
Từ năm 1980 Lý Lan bắt đầu dạy ở trường Trung học Cần Giuộc (Long An), năm 1984 chuyển về trường Trung học Hùng Vương, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm1991 chuyển qua trường Trung học Lê Hồng Phong, năm 1995 sang dạy ở Đại học Văn Lang đến năm 1997 thì nghỉ dạy.
Lý Lan lập gia đình với Mart Stewart, một người Mỹ và hiện định cư ở cả hai nơi, Hoa Kỳ và Việt Nam.
Nơi Bình Yên Chim Hót (NXB Cà Mau, Cà Mau, 1986)
Chút Lãng Mạn Trong Mưa (NXB Trẻ, TP HCM, 1987)
Hội Lồng Đèn (NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1991)
Chiêm Bao Thấy Núi (NXB Trẻ, TP HCM, 1991)
Truyện (in chung với Nguyễn Thị Minh Ngọc và Nguyễn Hải Chí, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh 1992)
Những Người Lớn (NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1992)
Mưa Chuồn Chuồn (NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1993)
Chân Dung Người Hoa (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1994)
Đất Khách, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1995)
Bí Mật Của Tôi và Thằn Lằn Đen (NXB Trẻ, TP HCM,1996)
Lệ Mai, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1998)
Thơ (in chung với Thanh Nguyên và Lưu Thị Lương, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1998)
**Và thành công nhất trong phẩn dịch truyện tiêu biểu là:
Âm Phủ
Loạt truyện Harry Potter (đây là bộ truyện thành công nhất)
Những chuyện kể của Beedle người hát rong
TRẦN BÌNH DƯƠNG
TRẦN BÌNH DƯƠNG
Tiểu sử:
Trần Bình Dương (1954-8/4/2010)tên thật là Trần Minh Châu.
Dạy học,làm báo,sáng tác văn học.
Ủy viên BCH Hội Văn học
Nghệ thuật,Phó chủ tịch Thường trực Hội VHNT Bình Dương.
5 lần đọat giải nhất thơ trong và ngoài tỉnh (1972-1985)
Tác phẩm:
Tác phẩm chính
Bi kịch trắng (tập truyện ngắn)
Đi về phía mặt trời (thơ)
Linh hồn của quỷ (tiểu thuyết)
Củng cố bài học
AI ĐƯỢC GỌI LÀ THI TƯỚNG RỪNG XANH?
A. BÌNH NGUYÊN LỘC
B. NGUYỄN NHẬT ÁNH
C. TÔ HOÀI
D. HUỲNH VĂN NGHỆ
AI ĐƯỢC GỌI LÀ THI TƯỚNG RỪNG XANH?
A. BÌNH NGUYÊN LỘC
B. NGUYỄN NHẬT ÁNH
C. TÔ HOÀI
D. HUỲNH VĂN NGHỆ
AI LÀ DỊCH GIẢ BỘ TRUYỆN HARRY POTTER ?
A. NGUYÊN HỒNG
B. NGUYỄN DU
C. LÝ LAN
D. HỒ XUÂN HƯƠNG
AI LÀ DỊCH GIẢ BỘ TRUYỆN HARRY POTTER ?
A. NGUYÊN HỒNG
C. LÝ LAN
B. NGUYỄN DU
D. HỒ XUÂN HƯƠNG
NHÀ VĂN “TRẦN BÌNH DƯƠNG” TÊN THẬT LÀ GÌ?
A. TÔ VĂN TUẤN
B. TRẦN MINH CHÂU
C. LÊ HỒNG PHONG
D. NGUYỄN MINH CHÂU
NHÀ VĂN “TRẦN BÌNH DƯƠNG” TÊN THẬT LÀ GÌ?
A. TÔ VĂN TUẤN
B. TRẦN MINH CHÂU
C. LÊ HỒNG PHONG
D. NGUYỄN MINH CHÂU
BÚT DANH CỦA NGUYỄN NGUY ANH LÀ GÌ ?
A. NGUYỄN THI CA DAO
B. NGÔ TẤT TỐ
C. NGUYỄN ANH
D. THI ANH
BÚT DANH CỦA NGUYỄN NGUY ANH LÀ GÌ ?
A. NGUYỄN THI CA DAO
C. NGUYỄN ANH
B. NGÔ TẤT TỐ
D. THI ANH
AI LÀ LÃNH TỤ PHONG TRÀO CỘNG SẢN ĐỆ TỨ TẠI VIỆT NAM?
A. PHAN ĐĂNG LƯU
B. PHAN VĂN HÙM
C. TỐ HỮU
D. VÕ NGUYÊN GIÁP
AI LÀ LÃNH TỤ PHONG TRÀO CỘNG SẢN ĐỆ TỨ TẠI VIỆT NAM?
A. PHAN ĐĂNG LƯU
C. TỐ HỮU
B. PHAN VĂN HÙM
D. VÕ NGUYÊN GIÁP
Hết
Cảm ơn các bạn
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Thị Thơm
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)