Bài 40. Đa dạng và đặc điểm chung của lớp Bò sát

Chia sẻ bởi Trần Thị Thùy Dung | Ngày 04/05/2019 | 43

Chia sẻ tài liệu: Bài 40. Đa dạng và đặc điểm chung của lớp Bò sát thuộc Sinh học 7

Nội dung tài liệu:

KÍNH CHÀO THẦY VÀ CÁC BẠN
ĐA DẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LỚP BÒ SÁT
NHÓM 3
ĐA DẠNG CỦA BÒ SÁT
Trên thế giới có khoảng 6 500 loài bò sát. Ở Việt Nam đã phát hiện 271 loài. Chúng có da khô, vảy sừng bao bọc và sinh sản trên cạn.
Bộ Có vảy
Bộ Đầu mỏ
LỚP
BÒ SÁT
Bộ Cá sấu
Bộ Rùa
Chúng ta hãy
cùng xem các con vật của từng bộ nào!!^.^
Bộ Có vảy
giáp với sườn; có một dải màu vàng nhạt hình vòng cung ở phía sau gáy, có 3-4 dải màu vàng nhạt chạy ngang lưng; vảy thân dạng hạt. Hiện tại mới chỉ ghi nhận loài thằn lằn này ở đảo Cát Bà và đây cũng là loài thạch sùng mí thứ tư thuộc giống Goniurosauru hiện biết ở Việt Nam.

Thạch sùng mí cát bà Goniurosaurus catbaensis
Loài này có đặc điểm đặc trưng gồm: thân hình mảnh dẻ, dẹp, dài; chi dài và mảnh; mắt màu nâu vàng; lưng màu nâu với những vệt màu xám, có nhiều đốm màu vàng phần
Thằn lằn bóng chân ngắn Anguilla Bank
Đặc điểm chung của chúng là có vảy nhỏ tròn và mịn, bề ngang cơ thể dày, cổ cử động mạnh và có chân ngắn.
Thằn lằn bóng chân ngắn còn có tập tính sinh sản khác biệt so với các loài thằn lằn khác. Đó là con cái mang thai (chứ không đẻ trứng), có nhau thai nuôi dưỡng bào thai và sau đó đẻ con. Thời gian sinh sản diễn ra trong vòng một năm.
Loài kì nhông này có màu từ xanh ngọc lam sang màu xanh, môi trên trắng và những vệt nâu đỏ nhạt trên hông. Hai gai nhỏ, hoặc các nhóm gai nhỏ phân bố phía trên màng nhĩ. Có một mảng các vảy đen nhỏ trước vai.
Loài này sống nhiều ở trên cây hơn các loài Calotes khác trong khu vực, săn bắt các côn trùng lớn trên các thân cây gỗ cao, trên mặt đất. Con cái đẻ khoảng 7 trứng sau những cơn mưa to đầu mùa và chôn trứng dưới đất, con nhỏ nở ra sau khoảng thời gian hai tháng.
Nhông xám
Hoạt động chủ yếu về đêm. Con cái thường sinh được một ổ trứng khoảng 7-8 quả, đẻ và ấp trứng trong hang. Rắn cạp nong là một trong những loài rắn có nọc độc ghê gớm nhất. Khi bị rắn cạp nong cắn, bệnh nhân thường: nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy và chóng mặt. Nếu lượng chất độc lớn và không được hỗ trợ y tế kịp thời có thể gây suy hô hấp dẫn đến tử vong do ngạt thở.
Rắn cạp nong là loài có kích thước khá lớn. Chúng thường sinh sống ở nhiều loại môi trường như trong các gò mối hay hang của động vật gặm nhấm gần với nước, và thường sống gần khu vực con người, đặc biệt là các làng.Thức ăn chính của rắn cạp nong là các loài rắn khác. Ngoài ra chúng cũng ăn cả lưỡng cư, bò sát và các loài động vật gặm nhấm.
Rắn hổ mang thường sống trong những hang chuột ở đồng ruộng, làng mạc, vườn tược, bờ đê, dưới gốc cây lớn, trong bụi tre… Rắn trưởng thành hoạt động kiếm ăn chủ yếu vào ban đêm, còn rắn non thường kiếm ăn ban ngày.
Rắn hổ mang Rắn cỡ lớn, đầu không phân biệt với cổ, không có vảy má. Rắn có khả năng bạnh cổ khi bị kích thích, khi đó ở phía trên cổ trông rõ một vòng tròn màu trắng.
Cá sấu hoa cà là loài bò sát cỡ lớn. Chiều dài cơ thể tới 6m. Mõm dài, có 2 gờ chạy từ mũi tới mắt, không có tấm sau chẩm. Toàn thân phủ tấm sừng, những tấm sừng trên lưng cách nhau bởi màng da. Đuôi cao, to và khỏe, phía trên có 4 gờ. Chân sau có màng bơi nối giữa các ngón. Trên lưng màu vàng và xám đen xen kẽ nhau.
Thịt cá sấu ngon, là món ăn đặc sản ở nhà hàng, khách sạn. Da thuộc làm cặp, ví, thắt lưng,... bền và đẹp, có giá trị thương mại cao. Chúng còn được nuôi ở những nơi vui chơi, giải trí (vườn động vật).
Bộ Cá sấu
Cá sấu Cuba là một loài cá sấu nhỏ (trung bình dài 2,4 mét) được tìm thấy ở đầm lầy Zapata và đảo Thanh Niên của Cuba.
Loài này có nhiều đặc điểm khác các loài cá sấu khác, chẳng hạn như màu sắc dành của con trưởng thành sáng hơn, xù xì hơn, vảy nhiều "sỏi" hơn, chân dài và mạnh mẽ. Loài này ở trên mặt đất nhiều nhất trong các loài cá sấu, và cũng có thể là loài cá sấu thông minh nhất. Chúng thích sống ở các vùng nước ngọt như đầm lầy, sông và ít khi bơi ở vùng nước mặn.
Rùa báo là một loài rùa lớn được tìm thấy trong các thảo nguyên của miền đông và miền nam châu Phi. Loài này thích môi trường sống bán khô cằn, gai góc với những vùng đồng cỏ, mặc dù một số con rùa báo đã được tìm thấy tại các khu vực mưa nhiều hơn. Trong cả hai thời tiết rất nóng và rất lạnh, chúng có thể ở trong hang bị bỏ rơi của cáo, chó rừng, hoặc thú ăn kiến​. Loài rùa này không đào hang mà chỉ có thể khoét lỗ đẻ trứng. Không có gì đáng ngạc nhiên, với xu hướng của nó đối với môi trường sống đồng cỏ, nó di chuyển rộng khắp trên cỏ hỗn hợp. Loài rùa này thường sống từ 80 đến 100 năm.
Bộ Rùa
Ba ba là động vật lớn chậm. Ba ba bơi lội nhanh, lặn rất lâu nhờ các cơ quan hô hấp phụ trong họng cho phép trao đổi khí ngay trong nước. Cổ có thể vươn dài ra hoặc thụt sâu vào trong mai. Chuyên ăn động vật. Đẻ trứng vào đất cát ở mép nước. Thịt Ba ba ngon, được coi là món ăn đặc sản dân tộc. Đã được nuôi để lấy thịt. Ba ba đẻ trứng trên cạn, thụ tinh trong, thời gian thụ tinh có thể tới 6 tháng, nên khi cho đẻ tỉ lệ con đực thường ít hơn con cái, mỗi lứa đẻ 10 - 15 trứng.
Ba ba thường sống ở đáy sông, suối, đầm, hồ, ao. Khi đói chúng ăn thịt lẫn nhau.
LỚP
BÒ SÁT
Bộ Có vẩy
Có chi, màng nhĩ rõ
Không có chi, không có màng nhĩ

Bộ Cá sấu: Hàm rất dài, có
nhiều răng lớn, nhọn sắc.
Trứng có vỏ đá vôi bao bọc
Bộ Rùa : hàm không có răng,
có mai và yếm
CÁC LOÀI KHỦNG LONG
Tổ tiên của bò sát được hình thành cách đây khoảng 280-230 triệu năm. Sau đó, do gặp nhưng điều kiện sống thuận lợi, chưa có kẻ thù, cấu tạo cơ thể phù hợp với môi trường sống nên chúng đã phát triển rất mạnh mẽ.
+ Dưới nước (khủng long cá): chi có dạng vây cá.
+ Trên cạn (khủng long bạo chúa): chi trước ngắn có vuốt sắc nhọn, chi sau to khỏe.
+ Trên không (khủng long cánh): cánh có cấu tạo như cánh dơi, chi sau yếu.
ALLOSAURUS
Loài khủng long ăn thịt này sống cách đây 140 triệu năm, có răng nhọn đến nỗi một số dấu răng của nó đã được phát hiện trên xương của một con Apatosaurus. Allosaurus dài 10m và nặng 2 tấn. Chân trước của Allosaurus nhỏ có móng nhọn nhưng chân sau dài hơn nhiều. Người ta dự đoán nó đi bằng hai chân sau với tư thế thẳng đứng.

ARCHAEOPTERYX
Từng được coi là loài chim nguyên thủy, con vật này có dáng vóc ``khủng long`` hơn các con vật biết bay khác. Nó có xương cứng chắc, răng trong mỏ và có thể bay hoặc bò, mình nó phủ đầy lông và vẩy. Nó thường quanh quẩn trên các cánh rừng Jurassic để bắt côn trùng.

APATOSAURUS
Loại khủng long này nổi tiếng như Brontosaurus, thường quen gọi là ``thằn lằn sấm`` nhưng tên gọi chính xác là Apatosaurus ``thằn lằn không đầu``. Nó sống cách đây 140 triệu năm, dài hơn 25m, nặng 30 tấn. Chân trước ngắn hơn chân sau. Đồng loại của chúng được tìm thấy ở Miền Tây Hoa Kỳ với các khủng long Jusrassic khác. Răng của nó nhỏ, bằng dẹp nên không thể kịp nhai kỹ toàn bộ thức ăn, vì thế nó nhờ cậy vào ``dạ dày`` thuộc loại ``máy xay đá`` giúp thêm cho sự tiêu hóa. Căn cứ vào hình dạng và chức năng tiêu hóa của răng, nó được coi là động vật ăn cỏ.

               
                                                                              
Anchisaurus sống vào giữa cuối ``giai đoạn`` Triasic cách đây trên 10 triệu năm . Nó dài chừng 2m và có thể ăn cây cỏ hoặc thịt. Giữa thế kỉ 19, một số bộ xương của loài khủng long đầu tiên đã được phát hiện ở Bắc Mỹ, trong đó có loài khủng long Anchisaurus này.

ANCHISAURUS
Sự diệt vong của khủng long
Do cạnh tranh với chim và thú
Do ảnh hưởng của khí hậu và thiên tai
ĐẶC DiỂM CHUNG
Bò sát là động vật có xương sống thích nghi hoàn toàn với đời sống ở cạn: da khô, vảy sừng khô, cổ dài, màng nhĩ nằm trong hốc tai, chi yếu có vuốt sắc, phổi có nhiều vách ngăn, tim có vách hụt ngăn tâm thất (trừ cá sấu), máu đi nuôi cơ thể là máu pha, là động vật biến nhiệt. Có cơ quan giao phối, thụ tinh trong; trứng có màng dai hoặc vỏ đá vôi bao bọc, giàu noãn hoàng.
VAI TRÒ:
- Có giá trị thực phẩm
Làm sản phẩm mĩ nghệ
Làm dược phẩm
Tiêu diệt sâu bọ có hại
Chào tạm biệt!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trần Thị Thùy Dung
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)