Bài 4. Chuyện người con gái Nam Xương
Chia sẻ bởi Nguyễn Tuyết Hạnh |
Ngày 07/05/2019 |
25
Chia sẻ tài liệu: Bài 4. Chuyện người con gái Nam Xương thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
Chuyện người con gái
Nam Xương
Nguyễn Dữ
I. GiỚI THIỆU CHUNG:
1.Tác giả:
Ti?t 16: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, người ở Trường Tân nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương là người học rộng, tài cao nhưng ông tránh vòng danh lợi, chỉ làm quan một năm rồi về sống ẩn dật ở quê nhà.
2. Tác phẩm:
Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn điều kì lạ được lưu truyền): Tác phẩm viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và từng được xem là áng Thiên cổ kì bút (áng văn hay của ngàn đời).
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16/ 20 truyện của “TKML” ; được tái tạo trên cơ sở truyện cổ tích: Vợ chàng Trương
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
1. Đọc, kể, chú thích:
2. Phn tích:
Nhân vật Vũ Nương:
- "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng".
Ti?t 16: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
“Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, lòng tham không cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”
-Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
- ThiÕp vèn con kÎ khã, ®îc n¬ng tùa nhµ giµu. Sum häp cha tháa t×nh ch¨n gèi, chia ph«i v× ®éng viÖc löa binh. C¸ch biÖt ba n¨m gi÷ g×n mét tiÕt. T« son ®iÓm phÊn tõng ®· ngu«i lßng, ngâ liÔu têng hoa cha hÒ bÐn gãt. §©u cã sù mÊt nÕt h th©n nh lêi chµng nãi. D¸m xin bµy tá ®Ó cëi mèi nghi ngê. Mong chµng ®õng mét mùc nghi oan cho thiÕp!
Một đoạn sông Hoµng Giang trước đền
Phía trước cổng Đền Vũ Điện (còn gọi là Đền Bà Vũ) - miếu vợ chàng Trương
thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Bảng di tích văn hóa trước cổng
LẠI BÀI VIẾNG VŨ THỊ
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Lê Thánh Tông
LUYỆN TẬP (3 nhóm)
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương?
Những nỗi đau khổ đắng cay mà Vũ Nương chịu đựng là gì, nỗi đau khổ nào lớn nhất?
Những nguyên nhân nào dẫn đến nỗi oan nghiệt của Vũ Nương, đâu là nguyên nhân sâu xa nhất?
1. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương :
thùy mị nết na, khoan hòa nhường nhịn
nàng dâu hiếu thảo hiếm có
người vợ tha thiết yêu thương và rất mực thủy chung
người mẹ hết lòng yêu thương hy sinh vì con
người phụ nữ giàu đức hy sinh, giàu lòng tự trọng, giàu lòng vị tha …
2. Nỗi khổ đau của Vũ Nương :
thân phận nghèo hèn, thấp kém
lấy phải người chồng đa nghi, ít học
chịu muôn vàn vất vả vì gia đình, vì hy vọng hạnh phúc
bị chính người chồng mình hết lòng yêu thương thủy chung coi rẻ nhân phẩm, đau đớn tuyệt vọng phải tìm đến cái chết
mất mạng sống, mất hạnh phúc, vĩnh viễn lìa xa con
=> hạnh phúc ngắn ngủi, khổ đau mỏi mòn
3. Nguyên nhân nỗi oan trái của Vũ Nương :
sự bất bình đẳng về thân phận (giàu>chiến tranh gây chia li xa cách
cái bóng và lời nói đùa con vô tình mà gây oan nghiệt
người chồng đa nghi, ít học, ghen tuông mù quáng, độc đoán vũ phu
chế độ phong kiến nam quyền đã cướp đi quyền bình đẳng của người phụ nữ…
=>hạnh phúc ngắn ngủi, khổ đau mỏi mòn
người phụ nữ giàu đức hy sinh, giàu lòng tự trọng, giàu lòng vị tha …
Chị em ta tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời và nắng cả cho thơ
Chúng ta hãy cùng ước mơ, hy vọng xã hội hôm nay và ngày mai sẽ không còn khổ đau oan trái, những người phụ nữ sẽ được tôn vinh, hạnh phúc!
Nam Xương
Nguyễn Dữ
I. GiỚI THIỆU CHUNG:
1.Tác giả:
Ti?t 16: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, người ở Trường Tân nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương là người học rộng, tài cao nhưng ông tránh vòng danh lợi, chỉ làm quan một năm rồi về sống ẩn dật ở quê nhà.
2. Tác phẩm:
Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn điều kì lạ được lưu truyền): Tác phẩm viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và từng được xem là áng Thiên cổ kì bút (áng văn hay của ngàn đời).
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16/ 20 truyện của “TKML” ; được tái tạo trên cơ sở truyện cổ tích: Vợ chàng Trương
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
1. Đọc, kể, chú thích:
2. Phn tích:
Nhân vật Vũ Nương:
- "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng".
Ti?t 16: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
“Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, lòng tham không cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”
-Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
- ThiÕp vèn con kÎ khã, ®îc n¬ng tùa nhµ giµu. Sum häp cha tháa t×nh ch¨n gèi, chia ph«i v× ®éng viÖc löa binh. C¸ch biÖt ba n¨m gi÷ g×n mét tiÕt. T« son ®iÓm phÊn tõng ®· ngu«i lßng, ngâ liÔu têng hoa cha hÒ bÐn gãt. §©u cã sù mÊt nÕt h th©n nh lêi chµng nãi. D¸m xin bµy tá ®Ó cëi mèi nghi ngê. Mong chµng ®õng mét mùc nghi oan cho thiÕp!
Một đoạn sông Hoµng Giang trước đền
Phía trước cổng Đền Vũ Điện (còn gọi là Đền Bà Vũ) - miếu vợ chàng Trương
thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Bảng di tích văn hóa trước cổng
LẠI BÀI VIẾNG VŨ THỊ
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Lê Thánh Tông
LUYỆN TẬP (3 nhóm)
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương?
Những nỗi đau khổ đắng cay mà Vũ Nương chịu đựng là gì, nỗi đau khổ nào lớn nhất?
Những nguyên nhân nào dẫn đến nỗi oan nghiệt của Vũ Nương, đâu là nguyên nhân sâu xa nhất?
1. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương :
thùy mị nết na, khoan hòa nhường nhịn
nàng dâu hiếu thảo hiếm có
người vợ tha thiết yêu thương và rất mực thủy chung
người mẹ hết lòng yêu thương hy sinh vì con
người phụ nữ giàu đức hy sinh, giàu lòng tự trọng, giàu lòng vị tha …
2. Nỗi khổ đau của Vũ Nương :
thân phận nghèo hèn, thấp kém
lấy phải người chồng đa nghi, ít học
chịu muôn vàn vất vả vì gia đình, vì hy vọng hạnh phúc
bị chính người chồng mình hết lòng yêu thương thủy chung coi rẻ nhân phẩm, đau đớn tuyệt vọng phải tìm đến cái chết
mất mạng sống, mất hạnh phúc, vĩnh viễn lìa xa con
=> hạnh phúc ngắn ngủi, khổ đau mỏi mòn
3. Nguyên nhân nỗi oan trái của Vũ Nương :
sự bất bình đẳng về thân phận (giàu>
cái bóng và lời nói đùa con vô tình mà gây oan nghiệt
người chồng đa nghi, ít học, ghen tuông mù quáng, độc đoán vũ phu
chế độ phong kiến nam quyền đã cướp đi quyền bình đẳng của người phụ nữ…
=>hạnh phúc ngắn ngủi, khổ đau mỏi mòn
người phụ nữ giàu đức hy sinh, giàu lòng tự trọng, giàu lòng vị tha …
Chị em ta tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời và nắng cả cho thơ
Chúng ta hãy cùng ước mơ, hy vọng xã hội hôm nay và ngày mai sẽ không còn khổ đau oan trái, những người phụ nữ sẽ được tôn vinh, hạnh phúc!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Tuyết Hạnh
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)