Bài 4. Chuyện người con gái Nam Xương
Chia sẻ bởi Nguyễn Diệu Thúy |
Ngày 07/05/2019 |
28
Chia sẻ tài liệu: Bài 4. Chuyện người con gái Nam Xương thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
( Trích Truyền kì mạn lục )
Tiết : 17, 18
VĂN BẢN
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
NGUYỄN DỮ
I. ĐỌC- HIỂU CHÚ THÍCH
1. Tác giả:
Nguyễn Dữ
- Ông sống vào nửa đầu thế kỉ XVI, là học trò giỏi của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Sống vào thời kì chế độ phong kiến Lê-Mạc-Trịnh tranh giành quyền lực, loạn lạc triền miên, dân tình khốn khổ.
- Thi đỗ hương cống, chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi rừng Thanh Hoá.
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: trích “Truyền kì mạn lục
b. Thể loại: truyện truyền kì
c. Bố cục:
3 phần
Từ đầu-> cha mẹ đẻ mình: cuộc hôn nhân của Trương Sinh với Vũ Nương.
Qua năm sau-> việc trót đã qua rồi: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
- Còn lại: Vũ Nương sống ở thủy cung.
II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN.
1. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương
- Trước khi lấy chồng:
Tính tình thùy mị nết na lại thêm tư
dung tốt đẹp
- Cư xử với chồng:
+ Biết chồng có tính đa nghi, nàng giữ gìn khuôn phép
+ Tiễn chồng: chỉ mong ngày về mang theo hai chữ bình an
- Với con:
Một mình sinh con, nuôi dạy con. Hằng đêm nàng trỏ bóng mình trên vách, bảo đó là cha.
+ Khi xa chồng: luôn thủy chung, chờ đợi
THẢO LUẬN:
Việc Vũ Nương chỉ bóng mình dạy con đó là cha có ý nghĩa gì?
Ý nghĩa chi tiết “cái bóng”:
- Dạy con gia đình sum vầy có mẹ, có cha. Nàng không để con thiếu vắng tình cha.
- Thể hiện nỗi nhớ mong và tình cảm với chồng. Nàng là hình, chàng là bóng, quấn quít bên nhau.
- Với mẹ chồng:
+ Khi bà ốm: nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.
+ Khi bà mất: Lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ.
=> Vũ Nương đẹp người, đẹp nết. Nàng là người vợ hiền, người dâu thảo, người mẹ hết mực thương con
Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh trở về tới nhà, được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc. Sinh dỗ dành:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đứa con ngây thơ nói:
- Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc nhiên hỏi. Đứa con nhỏ nói:
- Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.
Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại dấu không kể lời con nói; chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa và chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một hôm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:
- Cha Đản lại đến kia kìa !
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách :
- Đây này !
Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi !
2. Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm
- Bị chồng nghi oan, đánh đập, đuổi đi
TỔ 1: TÌM HIỂU Ý NGHĨA LỜI THOẠI THỨ NHẤT
"Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp."
TỔ 2: TÌM HIỂU Ý NGHĨA LỜI THOẠI THỨ HAI
"Thiếp sở dĩ nương tựa và chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa."
TỔ 3: TÌM HIỂU Ý NGHĨA LỜI THOẠI THỨ BA
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
TỔ 4: TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA VŨ NƯƠNG
- Phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, xin đừng nghi oan.
- Đau đớn, thất vọng vì bị đối xử bất công.
- Thất vọng đến tột cùng, tìm đến cái chết để khẳng định tấm lòng trong trắng
Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương:
- Cuộc hôn nhân không bình đẳng
- Tính cách của Trương Sinh
- Do lời nói ngây thơ của đứa con.
- Do chế độ phong kiến nam quyền
=> Tố cáo chế độ phong kiến và bày tỏ niềm thương cảm cho số phận người phụ nữ.
3. Vũ Nương sống ở thủy cung:
- Cung gấm đền dao, nguy nga lộng lẫy, được gặp Phan Lang
- Được trở về trong giây lát, rực rỡ, uy nghi.
-> Thể hiện mơ ước của người xưa về lẽ công bằng
4. Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí.
- Khắc họa nhân vật qua đối thoại và tự bạch.
- Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt.
- Yếu tố kì ảo đan xem với yếu tố hiện thực.
III. TỔNG KẾT
Ghi nhớ/ 51
Tiết : 17, 18
VĂN BẢN
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
NGUYỄN DỮ
I. ĐỌC- HIỂU CHÚ THÍCH
1. Tác giả:
Nguyễn Dữ
- Ông sống vào nửa đầu thế kỉ XVI, là học trò giỏi của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Sống vào thời kì chế độ phong kiến Lê-Mạc-Trịnh tranh giành quyền lực, loạn lạc triền miên, dân tình khốn khổ.
- Thi đỗ hương cống, chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi rừng Thanh Hoá.
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: trích “Truyền kì mạn lục
b. Thể loại: truyện truyền kì
c. Bố cục:
3 phần
Từ đầu-> cha mẹ đẻ mình: cuộc hôn nhân của Trương Sinh với Vũ Nương.
Qua năm sau-> việc trót đã qua rồi: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
- Còn lại: Vũ Nương sống ở thủy cung.
II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN.
1. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương
- Trước khi lấy chồng:
Tính tình thùy mị nết na lại thêm tư
dung tốt đẹp
- Cư xử với chồng:
+ Biết chồng có tính đa nghi, nàng giữ gìn khuôn phép
+ Tiễn chồng: chỉ mong ngày về mang theo hai chữ bình an
- Với con:
Một mình sinh con, nuôi dạy con. Hằng đêm nàng trỏ bóng mình trên vách, bảo đó là cha.
+ Khi xa chồng: luôn thủy chung, chờ đợi
THẢO LUẬN:
Việc Vũ Nương chỉ bóng mình dạy con đó là cha có ý nghĩa gì?
Ý nghĩa chi tiết “cái bóng”:
- Dạy con gia đình sum vầy có mẹ, có cha. Nàng không để con thiếu vắng tình cha.
- Thể hiện nỗi nhớ mong và tình cảm với chồng. Nàng là hình, chàng là bóng, quấn quít bên nhau.
- Với mẹ chồng:
+ Khi bà ốm: nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.
+ Khi bà mất: Lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ.
=> Vũ Nương đẹp người, đẹp nết. Nàng là người vợ hiền, người dâu thảo, người mẹ hết mực thương con
Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh trở về tới nhà, được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc. Sinh dỗ dành:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đứa con ngây thơ nói:
- Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc nhiên hỏi. Đứa con nhỏ nói:
- Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.
Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại dấu không kể lời con nói; chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa và chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một hôm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:
- Cha Đản lại đến kia kìa !
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách :
- Đây này !
Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi !
2. Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm
- Bị chồng nghi oan, đánh đập, đuổi đi
TỔ 1: TÌM HIỂU Ý NGHĨA LỜI THOẠI THỨ NHẤT
"Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp."
TỔ 2: TÌM HIỂU Ý NGHĨA LỜI THOẠI THỨ HAI
"Thiếp sở dĩ nương tựa và chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa."
TỔ 3: TÌM HIỂU Ý NGHĨA LỜI THOẠI THỨ BA
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
TỔ 4: TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA VŨ NƯƠNG
- Phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, xin đừng nghi oan.
- Đau đớn, thất vọng vì bị đối xử bất công.
- Thất vọng đến tột cùng, tìm đến cái chết để khẳng định tấm lòng trong trắng
Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương:
- Cuộc hôn nhân không bình đẳng
- Tính cách của Trương Sinh
- Do lời nói ngây thơ của đứa con.
- Do chế độ phong kiến nam quyền
=> Tố cáo chế độ phong kiến và bày tỏ niềm thương cảm cho số phận người phụ nữ.
3. Vũ Nương sống ở thủy cung:
- Cung gấm đền dao, nguy nga lộng lẫy, được gặp Phan Lang
- Được trở về trong giây lát, rực rỡ, uy nghi.
-> Thể hiện mơ ước của người xưa về lẽ công bằng
4. Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí.
- Khắc họa nhân vật qua đối thoại và tự bạch.
- Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt.
- Yếu tố kì ảo đan xem với yếu tố hiện thực.
III. TỔNG KẾT
Ghi nhớ/ 51
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Diệu Thúy
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)