Bài 33. Kiểm tra tổng hợp cuối năm
Chia sẻ bởi Bùi Ngọc Mạnh |
Ngày 02/05/2019 |
22
Chia sẻ tài liệu: Bài 33. Kiểm tra tổng hợp cuối năm thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
BÀI THUYẾT TRÌNH VỀ CHÙA THÁNH ÂN TỰ
Người thực hiện : NGỌC MẠNH
Chùa Thánh Ân Tự, được xây từ thời Lê-Mạc (cuối thế kỷ 16) và vốn là tổ đình lớn thuộc một nhánh dòng thiền Lâm Tế. Xếp hạng: Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (năm 1990).
Lược sử
Mở đầu bài minh khắc trên tấm bia đá dựng tại đây năm Ất Hợi niên hiệu Đức Long thứ 7 triều Lê Thần Tông (1635), nhân dịp chùa Thánh ÂN TỰ được tu tạo với công đức nhiều quý tộc họ Trịnh, sư trụ trì Huệ Trung viết: "Đất Bắc nước Việt / có chùa Thánh Ân / nhân bồi nền cũ / xưa có hình Kim"... Suy ra chùa được xây khá lâu trước đó dưới triều Mạc với quy mô hình “chữ Kim”, tức không lớn. Lúc đầu chùa chỉ thờ pho tượng Quan Âm Nam Hải, cũng mang phong cách nghệ thuật điêu khắc của thời Mạc.
Sơ Tô dòng lâm Tê Đường Ngoài là Chuyết Chuyết sang Đại Việt năm 1630, vào Đàng Trong nước, rồi năm 1633 ra Thăng Long lưu lại ở chùa Khán Sơn Hoằng pháp . Sau đó ngài dời về chùa Phật Tích ở Tiên Du ( Bắc Ninh ) và cuối cùng , sau khi chúa Trịnh cho trùng tu chùa Ninh Phúc ( Bút Tháp) thì về chùa đó trụ trì cho đến khi viên tịch năm 1644. Tuy nhiên hiện nay vẫn không tìm được tư liệu hoặc hiện vật nào minh chứng cho hoạt động của chùa trong thế kỷ 18.
Kiến trúc
Từ đoạn đường đầu đi qua cây cầu nhỏ bắc ngang sông Nghĩa Trụ, du khách đã có thể nhìn thấy cổng tam quan hai tầng đồ sộ và bức tường dài. Trước cổng chùa có đôi câu đối, tạm dịch như sau:
Đất xanh cỏ biếc lan thơm ngát
Vườn mát gió đưa tâm nhẹ thanh.
Du khách đi qua cổng phụ mới xây bên cạnh tam quan theo một lối rộng lát gạch dẫn đến sân trước và sân sau. Trong sân trước nhô lên 5 ngọn tháp mộ của các vị sư trụ trì đã khuất. Tòa tam bảo quay hướng đông-nam và có mặt bằng hình chuôi vồ, bao gồm tiền đường, thiêu hương, thượng điện. Phía bên trái tam bảo là hồ nước, ở giữa có dựng một đài hoa sen ( Liên Hoa Đài), sao chép theo kiểu dáng và kích thước của chùa Một Cột ( Ba Đình Hà Nội).
Chùa xây theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” trong một khuôn viên khá lớn và khép kín. Tiền đường rộng 7 gian 2 dĩ, có những mảng trang trí trên kết cấu gỗ bên trong được chạm khắc tinh tế. Nhà bia là một phương đình nằm ở gần lưng thượng điện. Hai bên sân sau có hai hành lang dài, tạo thế bao quanh cùng với nhà Tăng, nhà Mẫu, nhà Tổ. Những diện tích đất còn lại phần nhiều là để trồng cây.
Lưu ý
Ngoài những tượng Phật hầu hết được tạo tác vào thế kỷ 18 và 19, trong chùa còn giữ được tác phẩm điêu khắc có từ thế kỷ 16, một trong hai pho tượng Quan Âm Nam Hải cổ nhất của Việt Nam. Tượng này làm bằng gỗ mít và cao 132cm, tạc vị Bồ tát với 652 cánh tay. Trong đó, 42 cánh tay lớn thể hiện nhiều động tác và hình dáng khác nhau như cầm linh khí, hoặc bắt quyết, v.v.. Hai đôi tay chính chắp trước ngực và đặt trong lòng. Phía sau có 610 cánh tay nhỏ xếp thành 5 lớp như nan quạt ở 2 bên sườn, xòe rộng tới 155cm và tạo nên một vòng hào quang tỏa sáng quanh người.
Đầu tượng đội mũ, có trang trí bằng những hạt tròn sơn son thếp vàng. Dáng tượng đầy đặn cân đối, thể hiện một phụ nữ Việt với khuôn mặt tròn, mắt lim dim nhìn xuống, mũi thon thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, cổ cao nhưng chỉ có một ngấn, tóc buông sau lưng. Đứng ở góc nào trước tượng, ta cũng đều cảm thấy Quan Âm Bồ tát dường như đang nhìn về mình. Ngài ngồi yên trong thế “tham thiền nhập định” mà các cánh tay cứu thế vẫn như ôm chúng sinh vào lòng, toát lên vẻ sinh động vừa dịu hiền vừa khỏe đẹp. Ngang bụng ngài thắt đai rủ xuống hai bên. Tấm cà sa khoác trên vai người tạo thành nhiều nếp áo mềm mại chảy dài phủ tới tận tòa sen.
Tòa sen được đội trên đầu một con quỷ hình rồng từ mặt sóng biển nổi lên. Tòa này cao 50cm, bao gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh phụ và 20 cánh đệm, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Đầu và tay rồng cao 23cm, mỗi cánh tay gân guốc đều có vảy và 3 chiếc móng sắc nhọn. Mặt rồng dữ tợn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng, tượng trưng cho các thế lực đen tối phải quy phục Phật pháp. Pho tượng và phần dưới đã tạo nên sự tương phản giữa cái thiện và cái ác, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm.
Bệ tượng có mặt cắt ngang rộng 88cm, dài 125cm, hình lục giác không đều nhưng cân xứng. Chiều dọc cao 50cm chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Cả ba bộ phận gồm tượng, tòa sen và bệ như vậy tổng cộng cao 255cm. Trang trí trên bệ gồm các hình hoa văn cánh sen nổi, cúc dây, sống lá cách điệu, mây lửa, sóng nước,… nhờ đó mà có thể đoán rằng pho tượng đã được dựng vào cuối thế kỷ 16, cùng thời với kiệt tác Quan Âm Nam Hải thứ hai đặt tại chùa Nga My của làng Hoàng Mai, Hà Nội.
Ngoài ra, Chùa còn giữa được pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhân có niên đại thế kỷ 16. Tượng bằng gỗ mít, cao 1,35m (không kể bệ) ngồi trên bệ sen hình lục giác (nếu kể cả bệ thì cao 2,31m). Tượng có 42 tay lớn và 610 tay nhỏ. 42 tay lớn chìa ra phía trước và xung quanh với nhiều động tác, hình dáng khác nhau, tay thì cầm vật báu, tay thì bắt quyết, không tay nào giống tay nào. Còn 610 tay nhỏ thì xếp thành nhiều lớp hai bên sườn và phía sau, xếp vào nhau như những nan quạt, tạo nên một quầng tròn phía sau tượng, như một vòng hào quang tỏa sáng quanh người. Đầu tượng đội mũ pháp sư, được trang trí những hạt tròn, sơn son thếp vàng óng ánh góp phần làm tăng thêm uy linh và đức độ của Phật Bà Quan Âm. Mặt tượng đầy đặn, đôn hậu, mắt lim dim nhìn xuống như đang tập trung tinh thần vào điều gì đó. Mũi tượng thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, tóc chảy dài ra phía sau. Dáng mặt của tượng là một phụ nữ Việt Nam. Tấm áo cà sa khoác trên người chảy dài xuống hai bên lẫn trong các nếp áo. Tượng trong tư thế ngồi yên tĩnh, thế “tham thiền nhập định” nhưng vẫn toát lên vẻ động của một tâm hồn sôi nổi. Những cánh tay sinh động với nhiều dáng, những nếp áo mềm mại chạy dài, phủ trên một tấm thân cân xứng, nở nang… đã thể hiện sức sống của mỗi con người, có những nét gần gũi với bóng dáng hiền dịu của các cô gái nông thôn khỏe mạnh. Tượng được tạc ngồi trên một tòa sen do con rồng đội, nổi lên trên mặt biển sóng nhấp nhô. Tòa sen cao 0,50m gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh sen phụ và 20 cánh cách điệu, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Rồng được thể hiện với bộ mặt dữ tợn, những cánh tay gân guốc với những chiếc móng sắc nhọn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng (Rồng ở dây tượng trưng cho loài ác quỷ ma vương, thế lực đen tối). Việc đội tòa sen của rồng biểu hiện sự quy phục Phật pháp. Về mặt thẩm mỹ, điều đó tạo nên sự tương phản giữa cái ác và cái thiện, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, dịu dàng, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm. Bệ tượng cao 0,5m có mặt lục giác, được chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Trang trí trên bệ tượng là các hình mây lửa, sóng nước,… chính nhờ các trang trí này mà có thể đoán định tượng được tạo tác vào cuối thế kỷ 16. Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 9.1.1990.
TRÒ CHƠI
ĐỘI HOA MAI
ĐỘI HOA ĐÀO
Chúc mừng năm mới
Người thực hiện : NGỌC MẠNH
Chùa Thánh Ân Tự, được xây từ thời Lê-Mạc (cuối thế kỷ 16) và vốn là tổ đình lớn thuộc một nhánh dòng thiền Lâm Tế. Xếp hạng: Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (năm 1990).
Lược sử
Mở đầu bài minh khắc trên tấm bia đá dựng tại đây năm Ất Hợi niên hiệu Đức Long thứ 7 triều Lê Thần Tông (1635), nhân dịp chùa Thánh ÂN TỰ được tu tạo với công đức nhiều quý tộc họ Trịnh, sư trụ trì Huệ Trung viết: "Đất Bắc nước Việt / có chùa Thánh Ân / nhân bồi nền cũ / xưa có hình Kim"... Suy ra chùa được xây khá lâu trước đó dưới triều Mạc với quy mô hình “chữ Kim”, tức không lớn. Lúc đầu chùa chỉ thờ pho tượng Quan Âm Nam Hải, cũng mang phong cách nghệ thuật điêu khắc của thời Mạc.
Sơ Tô dòng lâm Tê Đường Ngoài là Chuyết Chuyết sang Đại Việt năm 1630, vào Đàng Trong nước, rồi năm 1633 ra Thăng Long lưu lại ở chùa Khán Sơn Hoằng pháp . Sau đó ngài dời về chùa Phật Tích ở Tiên Du ( Bắc Ninh ) và cuối cùng , sau khi chúa Trịnh cho trùng tu chùa Ninh Phúc ( Bút Tháp) thì về chùa đó trụ trì cho đến khi viên tịch năm 1644. Tuy nhiên hiện nay vẫn không tìm được tư liệu hoặc hiện vật nào minh chứng cho hoạt động của chùa trong thế kỷ 18.
Kiến trúc
Từ đoạn đường đầu đi qua cây cầu nhỏ bắc ngang sông Nghĩa Trụ, du khách đã có thể nhìn thấy cổng tam quan hai tầng đồ sộ và bức tường dài. Trước cổng chùa có đôi câu đối, tạm dịch như sau:
Đất xanh cỏ biếc lan thơm ngát
Vườn mát gió đưa tâm nhẹ thanh.
Du khách đi qua cổng phụ mới xây bên cạnh tam quan theo một lối rộng lát gạch dẫn đến sân trước và sân sau. Trong sân trước nhô lên 5 ngọn tháp mộ của các vị sư trụ trì đã khuất. Tòa tam bảo quay hướng đông-nam và có mặt bằng hình chuôi vồ, bao gồm tiền đường, thiêu hương, thượng điện. Phía bên trái tam bảo là hồ nước, ở giữa có dựng một đài hoa sen ( Liên Hoa Đài), sao chép theo kiểu dáng và kích thước của chùa Một Cột ( Ba Đình Hà Nội).
Chùa xây theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” trong một khuôn viên khá lớn và khép kín. Tiền đường rộng 7 gian 2 dĩ, có những mảng trang trí trên kết cấu gỗ bên trong được chạm khắc tinh tế. Nhà bia là một phương đình nằm ở gần lưng thượng điện. Hai bên sân sau có hai hành lang dài, tạo thế bao quanh cùng với nhà Tăng, nhà Mẫu, nhà Tổ. Những diện tích đất còn lại phần nhiều là để trồng cây.
Lưu ý
Ngoài những tượng Phật hầu hết được tạo tác vào thế kỷ 18 và 19, trong chùa còn giữ được tác phẩm điêu khắc có từ thế kỷ 16, một trong hai pho tượng Quan Âm Nam Hải cổ nhất của Việt Nam. Tượng này làm bằng gỗ mít và cao 132cm, tạc vị Bồ tát với 652 cánh tay. Trong đó, 42 cánh tay lớn thể hiện nhiều động tác và hình dáng khác nhau như cầm linh khí, hoặc bắt quyết, v.v.. Hai đôi tay chính chắp trước ngực và đặt trong lòng. Phía sau có 610 cánh tay nhỏ xếp thành 5 lớp như nan quạt ở 2 bên sườn, xòe rộng tới 155cm và tạo nên một vòng hào quang tỏa sáng quanh người.
Đầu tượng đội mũ, có trang trí bằng những hạt tròn sơn son thếp vàng. Dáng tượng đầy đặn cân đối, thể hiện một phụ nữ Việt với khuôn mặt tròn, mắt lim dim nhìn xuống, mũi thon thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, cổ cao nhưng chỉ có một ngấn, tóc buông sau lưng. Đứng ở góc nào trước tượng, ta cũng đều cảm thấy Quan Âm Bồ tát dường như đang nhìn về mình. Ngài ngồi yên trong thế “tham thiền nhập định” mà các cánh tay cứu thế vẫn như ôm chúng sinh vào lòng, toát lên vẻ sinh động vừa dịu hiền vừa khỏe đẹp. Ngang bụng ngài thắt đai rủ xuống hai bên. Tấm cà sa khoác trên vai người tạo thành nhiều nếp áo mềm mại chảy dài phủ tới tận tòa sen.
Tòa sen được đội trên đầu một con quỷ hình rồng từ mặt sóng biển nổi lên. Tòa này cao 50cm, bao gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh phụ và 20 cánh đệm, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Đầu và tay rồng cao 23cm, mỗi cánh tay gân guốc đều có vảy và 3 chiếc móng sắc nhọn. Mặt rồng dữ tợn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng, tượng trưng cho các thế lực đen tối phải quy phục Phật pháp. Pho tượng và phần dưới đã tạo nên sự tương phản giữa cái thiện và cái ác, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm.
Bệ tượng có mặt cắt ngang rộng 88cm, dài 125cm, hình lục giác không đều nhưng cân xứng. Chiều dọc cao 50cm chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Cả ba bộ phận gồm tượng, tòa sen và bệ như vậy tổng cộng cao 255cm. Trang trí trên bệ gồm các hình hoa văn cánh sen nổi, cúc dây, sống lá cách điệu, mây lửa, sóng nước,… nhờ đó mà có thể đoán rằng pho tượng đã được dựng vào cuối thế kỷ 16, cùng thời với kiệt tác Quan Âm Nam Hải thứ hai đặt tại chùa Nga My của làng Hoàng Mai, Hà Nội.
Ngoài ra, Chùa còn giữa được pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhân có niên đại thế kỷ 16. Tượng bằng gỗ mít, cao 1,35m (không kể bệ) ngồi trên bệ sen hình lục giác (nếu kể cả bệ thì cao 2,31m). Tượng có 42 tay lớn và 610 tay nhỏ. 42 tay lớn chìa ra phía trước và xung quanh với nhiều động tác, hình dáng khác nhau, tay thì cầm vật báu, tay thì bắt quyết, không tay nào giống tay nào. Còn 610 tay nhỏ thì xếp thành nhiều lớp hai bên sườn và phía sau, xếp vào nhau như những nan quạt, tạo nên một quầng tròn phía sau tượng, như một vòng hào quang tỏa sáng quanh người. Đầu tượng đội mũ pháp sư, được trang trí những hạt tròn, sơn son thếp vàng óng ánh góp phần làm tăng thêm uy linh và đức độ của Phật Bà Quan Âm. Mặt tượng đầy đặn, đôn hậu, mắt lim dim nhìn xuống như đang tập trung tinh thần vào điều gì đó. Mũi tượng thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, tóc chảy dài ra phía sau. Dáng mặt của tượng là một phụ nữ Việt Nam. Tấm áo cà sa khoác trên người chảy dài xuống hai bên lẫn trong các nếp áo. Tượng trong tư thế ngồi yên tĩnh, thế “tham thiền nhập định” nhưng vẫn toát lên vẻ động của một tâm hồn sôi nổi. Những cánh tay sinh động với nhiều dáng, những nếp áo mềm mại chạy dài, phủ trên một tấm thân cân xứng, nở nang… đã thể hiện sức sống của mỗi con người, có những nét gần gũi với bóng dáng hiền dịu của các cô gái nông thôn khỏe mạnh. Tượng được tạc ngồi trên một tòa sen do con rồng đội, nổi lên trên mặt biển sóng nhấp nhô. Tòa sen cao 0,50m gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh sen phụ và 20 cánh cách điệu, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Rồng được thể hiện với bộ mặt dữ tợn, những cánh tay gân guốc với những chiếc móng sắc nhọn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng (Rồng ở dây tượng trưng cho loài ác quỷ ma vương, thế lực đen tối). Việc đội tòa sen của rồng biểu hiện sự quy phục Phật pháp. Về mặt thẩm mỹ, điều đó tạo nên sự tương phản giữa cái ác và cái thiện, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, dịu dàng, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm. Bệ tượng cao 0,5m có mặt lục giác, được chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Trang trí trên bệ tượng là các hình mây lửa, sóng nước,… chính nhờ các trang trí này mà có thể đoán định tượng được tạo tác vào cuối thế kỷ 16. Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 9.1.1990.
TRÒ CHƠI
ĐỘI HOA MAI
ĐỘI HOA ĐÀO
Chúc mừng năm mới
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Bùi Ngọc Mạnh
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)