Bài 28. Tìm hiểu các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận
Chia sẻ bởi Nguyễn Khương |
Ngày 03/05/2019 |
35
Chia sẻ tài liệu: Bài 28. Tìm hiểu các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
TRƯỜNG THCS NGUYỄN KHUYẾN
Ngữ văn 8
Biên soạn: NguyÔn ThÞ Hång V©n
KIỂM TRA BÀI CŨ:
CÂU 1: Trong bài văn nghị luận, bên cạnh yếu tố nghị luận là chủ yếu (hệ thống luận điểm, luận cứ...) còn có các yếu tố phụ nào khác?
CÂU 2: Vai trò của yếu tố biểu cảm trong
bài văn nghị luận là gì?
CÂU 3: Để bài văn nghị luận có sức biểu cảm cao, người làm văn cần chú ý những điều gì? ?
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
1.Vai trò của yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
a/ Sau nữa, việc săn bắt thú “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “Chúa tỉnh”-mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “Chúa tỉnh” -ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở […] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện , hoặc xì tiền ra”.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu).
Phân tích ngữ liệu:
a/ Sau nữa, việc săn bắt thú “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “Chúa tỉnh”-mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “Chúa tỉnh” -ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở […] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện , hoặc xì tiền ra”.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu).
b/ Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
Phân tích ngữ liệu:
b/ Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
a/ Sau nữa, việc săn bắt thú “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “Chúa tỉnh”-mỗi viên công sứ ở Đông Dương ra lệnh bắt lính. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở […] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói nhất là xoay xở làm tiền.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu).
b/ Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã đầu quân, các bạn đã rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế, tại sao lại có cảnh bị trói, bị nhốt. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
1.Vai trò của yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
Các yếu tố tự sự và miêu tả làm cho việc trình bày luận cứ rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn, có sức thuyết phục hơn.
2.Những điều cần lưu ý khi sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
Các dân tộc anh em trên đất nước chúng ta đã sáng tạo ra muôn vàn truyện anh hùng đẹp . Có truyện đã trở thành trường ca lớn , như Đam Săn, Xinh Nhã v.v… Riêng “Chàng Trăng” của dân tộc Mơ-nông và “Nàng Han” của dân tộc Thái là hai truyện có nhiều nét rất giống với truyện Thánh Gióng ở miền xuôi .
Mẹ chàng Trăng đã nằm mơ thấy một con thỏ trắng nhảy qua ngực mà thụ thai và đẻ ra chàng. Sợ tù trưởng phạt vạ, mẹ chàng bỏ chàng trên rừng, phó mặc cho trời đất. Suốt ngày chàng không nói, không cười, chỉ thích chơi khiên đao. Sau đó, chàng cưỡi ngựa đá khổng lồ do trời đất cho, đi giết một tên bạo chúa đến chiếm đất rồi cuối cùng biến vào mặt trăng để đêm đêm soi xuống dòng thác Pông-gơ-nhi những vầng sáng bạc .
Còn nàng Han là một cô gái thông minh dũng cảm, lớn lên đi đánh giặc ngoại xâm. Quân nàng liên kết với người Kinh, theo cờ lệnh bằng chăn dệt chỉ ngũ sắc của nàng mà đánh tan được giặc. Mường bản đang vui thắng trận thì nàng hóa thành tiên lên trời , vui chơi rồi kéo ra sông Nậm Bờ tắm. Và trên dãy núi Pu-keo vẫn còn đền thờ nàng Han ở chân rừng, gần đấy có những vũng, những ao chi chít nối tiếp nhau là vết chân voi ngựa của quân nàng Han và quân đội của người Kinh .
So sánh với những truyện nói trên, chúng ta thấy truyện Thánh Gióng thực sự là một bản anh hùng ca và là anh hùng ca của người Việt cổ .
(Theo Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Gióng)
Phân tích ngữ liệu:
? Văn bản được dẫn ở SGK/115 để kể lại câu chuyện về chàng Trăng và nàng Han hay để dùng làm luận cứ nhằm chứng tỏ rằng hai truyện cổ của dân tộc miền núi đó có nhiều nét giống với truyện Thánh Gióng ở miền xuôi?
Các yếu tố tự sự, miêu tả:
-Trong chuyện “Chàng Trăng”: Về sự ra đời, lúc còn nhỏ, lúc cưỡi ngựa đi giết tên bạo chúa, biến vào mặt trăng đêm đêm soi bóng xuống dòng Pông-gơ-nhi.
-Trong chuyện “Nàng Han”: Về chuyện nàng Han liên kết với người Kinh đi đánh giặc. Thắng trận, nàng hoá thành tiên bay lên trời, còn lại ở núi Pu-keo những vũng, ao chi chít - Những vết chân voi, ngựa của quân nàng Han và quân người Kinh.
?Vì sao tác giả không kể kĩ, đầy đủ toàn bộ hai truyện “Chàng Trăng” và “Nàng Han”, mà chỉ kể, tả một số chi tiết hình ảnh và hoàn toàn không kể chi tiết truyện “Thánh Gióng"?
Tự sự nhưng không kể toàn bộ câu chuyện với tất cả các tình tiết. Miêu tả nhưng không tràn lan. Vì hai truyện này ít người biết nên cần kể, tả kĩ một số chi tiết, hình ảnh để giúp người đọc hình dung được sự gần gũi với truyện Thánh Gióng, tạo sự thuyết phục cho luận điểm. Còn truyện Thánh Gióng đã phổ biến, không cần phải kể.
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
1.Vai trò của yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
2.Những điều cần lưu ý khi sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
Chỉ chọn kể kĩ các chi tiết và miêu tả kĩ các hình ảnh phục vụ cho việc làm rõ luận điểm, tăng thêm sức thuyết phục.
Ghi nhớ :
Bài văn nghị luận thường vẫn cần phải có các yếu tố tự sự và miêu tả. Hai yếu tố này giúp cho việc trình bày luận cứ trong bài văn được rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn, và do đó, có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn.
Các yếu tố tự sự và miêu tả được dùng làm luận cứ phải phục vụ cho việc làm rõ luận điểm và không phá vỡ mạch lạc nghị luận của bài văn.
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
II.LUYỆN TẬP:
BT 1/116:
Sắp trung thu. Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ. Mười mấy ngày qua, trừ cái bực mình ban đầu khi bị bắt giữ vô cớ, cái khẳng định mình vẫn là khách tự do, chỉ là một xâu những sự vật lỉnh kỉnh, lích kích đáng lạ, đáng cười, đáng ghét của bộ mặt nhà giam. Bỗng đêm nay trăng sáng quá chừng. Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ, lồng trong bóng cây. Đêm nay rất đẹp. Trong lòng rạo rực bao nỗi niềm. Cầm lòng không đậu, người tù phải thốt lên :
“Đối thử lương tiêu nại nhược hà”
(Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ)
[…] Vậy trước cảnh đẹp đêm nay, trước cái đẹp đêm lành này (đối thử lương tiêu), biết làm sao bây giờ (nại nhược hà ?) Một câu hỏi hay một câu than đều có nghĩa. Nó là dấu hiệu của một tâm trạng dạt dào nên sinh băn khoăn. Hơn nữa, bối rối, xao xuyến. Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức, muốn chan hòa, muốn giãi bày, bộc lộ. Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải làm thơ. Tâm trạng người tù như vậy nhưng người tù đành như phải làm lơ. Như đành để mặc cho đêm đẹp đêm lành, cho trăng mời trăng giục. Nghĩa là bao nhiêu dạt dào trước trăng trước đêm, trước cái đẹp cái lành, phải ẩn vào bên trong, vùi vào im lặng.
(Lê Trí Viễn, Một số bài giảng thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh).
+ Yếu tố tự sự :
- Sắp trung thu.
- Đêm trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ.
- Mười mấy ngày qua, trừ cái bực mình ban đầu khi bị bắt vô cớ chỉ là một xâu những vật lỉnh kỉnh … đáng ghét của bộ mặt nhà giam.
- Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải làm thơ …
+ Yếu tố miêu tả :
- Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm nay trăng sáng quá chừng. Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ , lồng trong bóng cây.
- Đêm nay rất đẹp, rạo rực bao nỗi niềm, cầm lòng không đậu, người tù phải thốt lên …
- Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức , muốn chan hòa, muốn giãi bày, bộc lộ …
+ Tác dụng :
Giúp người đọc hình dung rõ hơn hoàn cảnh sáng tác và tâm trạng của nhà thơ, làm cho đoạn văn phân tích, bình giảng có sự đồng cảm ở chiều sâu cảm xúc và gợi sự tưởng tượng của người đọc.
BT 2/116:
Cần thiết, vì:
- Sử dụng yếu tố miêu tả để gợi lại vẻ đẹp của hoa sen
- Sử dụng yếu tố tự sự khi cần kể lại một vài kỉ niệm liên quan đến bài ca dao đó: ngắm sen, hái sen...
Bài tập Bổ TRợ:
Em phải viết một bài văn nghị luận để tham gia cuộc trao đổi về đề tài: Mọi người (trong gia đình, nhà trường, xã hội) đã sống vì em, vậy em cũng phải biết sống vì mọi người.
a/ Em sẽ nêu ra trong bài viết ấy những luận điểm nào?
b/ Hãy diễn đạt một trong những luận điểm đó thành một đoạn văn, trong đó các yếu tố tự sự và miêu tả được đưa vào một cách hợp lí để tăng cường sức thuyết phục cho hoạt động nghị luận.
Hệ thống luận điểm có thể là:
- Luận điểm 1: Trong gia đình, mọi người đã sống hết lòng vì em, đã nuôi nấng, chăm sóc, giúp đỡ em từ vật chất đến tinh thần.
- Luận điểm 2: Mọi người hết lòng vì em và thương yêu em vì em là con em ruột thịt trong gia đình.
- Luận điểm 3: Em rất cảm động và biết ơn đối với mọi người trong gia đình.
- Luận điểm 4: Bởi vậy, em cũng phải biết sống vì mọi người, không chỉ bằng lời nói suông mà cần bằng những hành động, việc làm cụ thể.
Hãy phát triển một trong những luận điểm trên
thành một đoạn văn kiểu diễn dịch hoặc quy nạp.
Lưu ý có sử dụng các yếu tố tự sự và miêu tả.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Ở NHÀ:
Học thuộc phần Ghi nhớ sgk/116.
- Làm bài tập: Viết đoạn trình bày một trong các luận điểm còn lại (phần bài tập bổ trợ).
- Chuẩn bị bài mới: Luyện tập đưa yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận.
Các thầy cô giáo và các em học sinh!
Xin chân thành cảm ơn
Ngữ văn 8
Biên soạn: NguyÔn ThÞ Hång V©n
KIỂM TRA BÀI CŨ:
CÂU 1: Trong bài văn nghị luận, bên cạnh yếu tố nghị luận là chủ yếu (hệ thống luận điểm, luận cứ...) còn có các yếu tố phụ nào khác?
CÂU 2: Vai trò của yếu tố biểu cảm trong
bài văn nghị luận là gì?
CÂU 3: Để bài văn nghị luận có sức biểu cảm cao, người làm văn cần chú ý những điều gì? ?
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
1.Vai trò của yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
a/ Sau nữa, việc săn bắt thú “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “Chúa tỉnh”-mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “Chúa tỉnh” -ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở […] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện , hoặc xì tiền ra”.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu).
Phân tích ngữ liệu:
a/ Sau nữa, việc săn bắt thú “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “Chúa tỉnh”-mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “Chúa tỉnh” -ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở […] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện , hoặc xì tiền ra”.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu).
b/ Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
Phân tích ngữ liệu:
b/ Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
a/ Sau nữa, việc săn bắt thú “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “Chúa tỉnh”-mỗi viên công sứ ở Đông Dương ra lệnh bắt lính. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở […] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói nhất là xoay xở làm tiền.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu).
b/ Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã đầu quân, các bạn đã rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế, tại sao lại có cảnh bị trói, bị nhốt. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
1.Vai trò của yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
Các yếu tố tự sự và miêu tả làm cho việc trình bày luận cứ rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn, có sức thuyết phục hơn.
2.Những điều cần lưu ý khi sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
Các dân tộc anh em trên đất nước chúng ta đã sáng tạo ra muôn vàn truyện anh hùng đẹp . Có truyện đã trở thành trường ca lớn , như Đam Săn, Xinh Nhã v.v… Riêng “Chàng Trăng” của dân tộc Mơ-nông và “Nàng Han” của dân tộc Thái là hai truyện có nhiều nét rất giống với truyện Thánh Gióng ở miền xuôi .
Mẹ chàng Trăng đã nằm mơ thấy một con thỏ trắng nhảy qua ngực mà thụ thai và đẻ ra chàng. Sợ tù trưởng phạt vạ, mẹ chàng bỏ chàng trên rừng, phó mặc cho trời đất. Suốt ngày chàng không nói, không cười, chỉ thích chơi khiên đao. Sau đó, chàng cưỡi ngựa đá khổng lồ do trời đất cho, đi giết một tên bạo chúa đến chiếm đất rồi cuối cùng biến vào mặt trăng để đêm đêm soi xuống dòng thác Pông-gơ-nhi những vầng sáng bạc .
Còn nàng Han là một cô gái thông minh dũng cảm, lớn lên đi đánh giặc ngoại xâm. Quân nàng liên kết với người Kinh, theo cờ lệnh bằng chăn dệt chỉ ngũ sắc của nàng mà đánh tan được giặc. Mường bản đang vui thắng trận thì nàng hóa thành tiên lên trời , vui chơi rồi kéo ra sông Nậm Bờ tắm. Và trên dãy núi Pu-keo vẫn còn đền thờ nàng Han ở chân rừng, gần đấy có những vũng, những ao chi chít nối tiếp nhau là vết chân voi ngựa của quân nàng Han và quân đội của người Kinh .
So sánh với những truyện nói trên, chúng ta thấy truyện Thánh Gióng thực sự là một bản anh hùng ca và là anh hùng ca của người Việt cổ .
(Theo Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Gióng)
Phân tích ngữ liệu:
? Văn bản được dẫn ở SGK/115 để kể lại câu chuyện về chàng Trăng và nàng Han hay để dùng làm luận cứ nhằm chứng tỏ rằng hai truyện cổ của dân tộc miền núi đó có nhiều nét giống với truyện Thánh Gióng ở miền xuôi?
Các yếu tố tự sự, miêu tả:
-Trong chuyện “Chàng Trăng”: Về sự ra đời, lúc còn nhỏ, lúc cưỡi ngựa đi giết tên bạo chúa, biến vào mặt trăng đêm đêm soi bóng xuống dòng Pông-gơ-nhi.
-Trong chuyện “Nàng Han”: Về chuyện nàng Han liên kết với người Kinh đi đánh giặc. Thắng trận, nàng hoá thành tiên bay lên trời, còn lại ở núi Pu-keo những vũng, ao chi chít - Những vết chân voi, ngựa của quân nàng Han và quân người Kinh.
?Vì sao tác giả không kể kĩ, đầy đủ toàn bộ hai truyện “Chàng Trăng” và “Nàng Han”, mà chỉ kể, tả một số chi tiết hình ảnh và hoàn toàn không kể chi tiết truyện “Thánh Gióng"?
Tự sự nhưng không kể toàn bộ câu chuyện với tất cả các tình tiết. Miêu tả nhưng không tràn lan. Vì hai truyện này ít người biết nên cần kể, tả kĩ một số chi tiết, hình ảnh để giúp người đọc hình dung được sự gần gũi với truyện Thánh Gióng, tạo sự thuyết phục cho luận điểm. Còn truyện Thánh Gióng đã phổ biến, không cần phải kể.
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
1.Vai trò của yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
2.Những điều cần lưu ý khi sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận:
Chỉ chọn kể kĩ các chi tiết và miêu tả kĩ các hình ảnh phục vụ cho việc làm rõ luận điểm, tăng thêm sức thuyết phục.
Ghi nhớ :
Bài văn nghị luận thường vẫn cần phải có các yếu tố tự sự và miêu tả. Hai yếu tố này giúp cho việc trình bày luận cứ trong bài văn được rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn, và do đó, có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn.
Các yếu tố tự sự và miêu tả được dùng làm luận cứ phải phục vụ cho việc làm rõ luận điểm và không phá vỡ mạch lạc nghị luận của bài văn.
Tuần: 30
Tiết: 119
Tập làm văn:
I.BÀI HỌC:
TÌM HIỂU YẾU TỐ TỰ SỰ VÀ MIÊU TẢ TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
II.LUYỆN TẬP:
BT 1/116:
Sắp trung thu. Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ. Mười mấy ngày qua, trừ cái bực mình ban đầu khi bị bắt giữ vô cớ, cái khẳng định mình vẫn là khách tự do, chỉ là một xâu những sự vật lỉnh kỉnh, lích kích đáng lạ, đáng cười, đáng ghét của bộ mặt nhà giam. Bỗng đêm nay trăng sáng quá chừng. Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ, lồng trong bóng cây. Đêm nay rất đẹp. Trong lòng rạo rực bao nỗi niềm. Cầm lòng không đậu, người tù phải thốt lên :
“Đối thử lương tiêu nại nhược hà”
(Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ)
[…] Vậy trước cảnh đẹp đêm nay, trước cái đẹp đêm lành này (đối thử lương tiêu), biết làm sao bây giờ (nại nhược hà ?) Một câu hỏi hay một câu than đều có nghĩa. Nó là dấu hiệu của một tâm trạng dạt dào nên sinh băn khoăn. Hơn nữa, bối rối, xao xuyến. Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức, muốn chan hòa, muốn giãi bày, bộc lộ. Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải làm thơ. Tâm trạng người tù như vậy nhưng người tù đành như phải làm lơ. Như đành để mặc cho đêm đẹp đêm lành, cho trăng mời trăng giục. Nghĩa là bao nhiêu dạt dào trước trăng trước đêm, trước cái đẹp cái lành, phải ẩn vào bên trong, vùi vào im lặng.
(Lê Trí Viễn, Một số bài giảng thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh).
+ Yếu tố tự sự :
- Sắp trung thu.
- Đêm trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ.
- Mười mấy ngày qua, trừ cái bực mình ban đầu khi bị bắt vô cớ chỉ là một xâu những vật lỉnh kỉnh … đáng ghét của bộ mặt nhà giam.
- Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải làm thơ …
+ Yếu tố miêu tả :
- Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm nay trăng sáng quá chừng. Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ , lồng trong bóng cây.
- Đêm nay rất đẹp, rạo rực bao nỗi niềm, cầm lòng không đậu, người tù phải thốt lên …
- Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức , muốn chan hòa, muốn giãi bày, bộc lộ …
+ Tác dụng :
Giúp người đọc hình dung rõ hơn hoàn cảnh sáng tác và tâm trạng của nhà thơ, làm cho đoạn văn phân tích, bình giảng có sự đồng cảm ở chiều sâu cảm xúc và gợi sự tưởng tượng của người đọc.
BT 2/116:
Cần thiết, vì:
- Sử dụng yếu tố miêu tả để gợi lại vẻ đẹp của hoa sen
- Sử dụng yếu tố tự sự khi cần kể lại một vài kỉ niệm liên quan đến bài ca dao đó: ngắm sen, hái sen...
Bài tập Bổ TRợ:
Em phải viết một bài văn nghị luận để tham gia cuộc trao đổi về đề tài: Mọi người (trong gia đình, nhà trường, xã hội) đã sống vì em, vậy em cũng phải biết sống vì mọi người.
a/ Em sẽ nêu ra trong bài viết ấy những luận điểm nào?
b/ Hãy diễn đạt một trong những luận điểm đó thành một đoạn văn, trong đó các yếu tố tự sự và miêu tả được đưa vào một cách hợp lí để tăng cường sức thuyết phục cho hoạt động nghị luận.
Hệ thống luận điểm có thể là:
- Luận điểm 1: Trong gia đình, mọi người đã sống hết lòng vì em, đã nuôi nấng, chăm sóc, giúp đỡ em từ vật chất đến tinh thần.
- Luận điểm 2: Mọi người hết lòng vì em và thương yêu em vì em là con em ruột thịt trong gia đình.
- Luận điểm 3: Em rất cảm động và biết ơn đối với mọi người trong gia đình.
- Luận điểm 4: Bởi vậy, em cũng phải biết sống vì mọi người, không chỉ bằng lời nói suông mà cần bằng những hành động, việc làm cụ thể.
Hãy phát triển một trong những luận điểm trên
thành một đoạn văn kiểu diễn dịch hoặc quy nạp.
Lưu ý có sử dụng các yếu tố tự sự và miêu tả.
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Ở NHÀ:
Học thuộc phần Ghi nhớ sgk/116.
- Làm bài tập: Viết đoạn trình bày một trong các luận điểm còn lại (phần bài tập bổ trợ).
- Chuẩn bị bài mới: Luyện tập đưa yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận.
Các thầy cô giáo và các em học sinh!
Xin chân thành cảm ơn
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Khương
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)