Bài 28. Thực hành: Xem băng hình về tập tính của sâu bọ
Chia sẻ bởi Nguyễn Anh Thu |
Ngày 05/05/2019 |
26
Chia sẻ tài liệu: Bài 28. Thực hành: Xem băng hình về tập tính của sâu bọ thuộc Sinh học 7
Nội dung tài liệu:
* Trường THCS Thanh Trường *
Nguyễn Mạnh Hùng.
TP Điện Biên Phủ
Sinh học 7
Sinh HọC LớP 7
Thực hành
Xem băng hình về tập tính
các loài sâu bọ
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Em hiểu biết gì về các loài côn trùng (sâu bọ)?
Giới thiệu chung về côn trùng(sâu bọ)
Côn trùng, hay sâu bọ, là những động vật không xương sống có tên khoa học là lớp Insecta (lớp Côn trùng), là lớp lớn nhất trên Trái Đất và cũng là lớp phân bố rộng rãi nhất trong số các đại diện của ngành Chân khớp (Arthropoda). Côn trùng là nhóm đa dạng nhất trên Trái Đất, với hơn 1 triệu loài đã được mô tả-chiếm hơn một nửa tổng số tất cả các loài sinh vật sống mà con người biết đến với ước lượng về số loài chưa được mô tả lên tới 30 triệu, và do đó có thể đại diện cho hơn 90% các dạng sống khác nhau trên hành tinh. Người ta có thể tìm thấy côn trùng ở gần như tất cả các môi trường sống trên Trái Đất, mặc dù chỉ có một số lượng nhỏ các loài có thể thích nghi được với đời sống ở đại dương, nơi mà giáp xác là nhóm chiếm ưu thế. Có khoảng 5.000 loài chuồn chuồn; 2.000 loài bọ ngựa; 20.000 loài châu chấu; 17.000 loài bướm; 120.000 loài hai cánh; 82.000 loài cánh nửa; 350.000 loài cánh cứng và khoảng 110.000 loài cánh màng. Côn trùng thực sự (mà được phân loại vào lớp côn trùng) có các đặc điểm sau: thứ nhất, cơ thể của một thành trùng (cá thể trưởng thành của loài) phải phân thành 3 phần tất cả: đầu, ngực và bụng. Thứ hai, thành trùng phải có tất cả ba đôi chân được gắn vào các đốt ngực, hai đôi râu (ăngten) trên đầu, và phần bụng được phân chia thành nhiều đốt (≤11 đốt). Phần lớn (không phải tất cả) côn trùng trưởng thành đều có cánh. Khoa học nghiên cứu về côn trùng được gọi là côn trùng học (entomology).
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Kích thước côn trùng dao động khoảng từ trên dưới 1 mm tới khoảng 180 mm về chiều dài. Côn trùng có cơ thể phân đốt và được bảo vệ bởi một bộ xương ngoài, một lớp cứng được cấu tạo chủ yếu bởi kitin. Cơ thể được chia thành đầu, ngực và bụng. Trên đầu có một cặp râu là cơ quan cảm giác, một cặp mắt kép và 2 mắt đơn (ở giai đoạn sâu non có thể là 6 mắt đơn) và một miệng. Ngực có 6 chân (mỗi đốt một cặp chân) và 2-4 cánh (ở các loài có cánh). Bụng có cơ quan bài tiết và cơ quan sinh sản. Côn trùng có một hệ tiêu hoá hoàn chỉnh, gồm một ống liên tục từ miệng tới hậu môn, khác với nhiều loài động vật chân khớp đơn giản khác có hệ tiêu hoá chưa hoàn chỉnh. Cơ quan bài tiết gồm các ống Manphigi (Malpighian), với chức năng thải các chất thải chứa nitơ, ruột sau làm nhiệm vụ điều hoà áp suất thẩm thấu, đoạn cuối ruột sau có khả năng tái hấp thu nước cùng với muối Natri và Kali. Vì vậy, côn trùng thường không bài tiết nước ra cùng với phân, thực tế thì chúng cho phép dự trữ nước trong cơ thể. Quá trình tái hấp thu này giúp chúng có thể chịu đựng được với điều kiện môi trường khô và nóng.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Hầu hết côn trùng có hai cặp cánh liên kết với đốt ngực 2 và 3. Côn trùng là động vật không xương sống duy nhất đã tiến hoá theo hướng bay lượn và chính điều này đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của chúng. Các côn trùng có cánh, và những côn trùng không cánh thứ sinh đã tạo nên nhóm có cánh (Pterygota). Cơ chế bay của côn trùng cho đến nay vẫn chưa được tìm hiểu một cách đầy đủ, người ta cho rằng nó phụ thuộc rất lớn vào khối không khí nhiễu loạn do cánh tạo ra. Ở những côn trùng nguyên thuỷ lại dựa chủ yếu vào tác động của hệ cơ lên cánh và cấu trúc của cánh. Ở những bộ tiến hoá hơn như Neoptera, cánh thường gập lại trên lưng khi chúng nghỉ ngơi. Ở những côn trùng này, cánh được hoạt động bởi các cơ bay gián tiếp mà giúp cánh vận động bằng cách ép mạnh lên thành ngực. Những cơ này có thể co lại khi bị căng ra mà không cần sự điều khiển của hệ thần kinh, điều này cho phép chúng tạo ra tần số co dãn cơ tương đối cao.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Côn trùng sử dụng cơ quan hô hấp khí quản để vận chuyển ôxy vào trong cơ thể. Các ống khí này mở ra ở bề mặt cơ thể và được gọi là lỗ thở (mỗi đốt có 1 đôi lỗ thở ở 2 bên), từ đây không khí được dẫn vào hệ thống khí quản. Không khí đi vào các mô thông qua các nhánh khí quản. Vòng tuần hoàn của côn trùng, cũng như tất cả các chân khớp khác là một hệ hở. Tim bơm dịch huyết vào động mạch qua xoang tim.
Côn trùng nở từ trứng, trải qua nhiều lần lột xác trước khi đạt tới kích thước trưởng thành của loài. Cách sinh trưởng này là bắt buộc vì chúng có bộ xương cứng bên ngoài, được cấu tạo chủ yếu bởi kitin (chitin). Lột xác là quá trình mà con vật thoát khỏi lớp xương ngoài cũ để tăng lên về kích thước, sau đó hình thành nên bộ xương ngoài mới, vì lớp xương ngoài bằng kitin hoặc đá vôi của các loài chân khớp không thể tăng lên về kích cỡ, trong khi cơ thể của chúng luôn luôn lớn lên cho tới lúc trưởng thành. Ở hầu hết các loài côn trùng, giai đoạn trẻ được gọi là thiếu trùng (nymph). Thiếu trùng có thể có cấu tạo tương tự như Thành trùng như ở châu chấu (mặc dù cánh chỉ phát triển đầy đủ cho đến giai đoạn trưởng thành). Đây là những côn trùng biến thái không hoàn toàn.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Một mảnh xác lột đã từng là bộ xương ngoài cấu tạo bởi kitin của loài bọ ngựa (thuộc bộ Mantidae), bị lột bỏ khi cơ thể lớn lên về kích cỡ.
Vòng đời phát triển của châu chấu
Ở những côn trùng biến thái hoàn toàn (hầu hết côn trùng), trứng nở thành dạng ấu trùng, có dạng giống như giun đất, gọi là giai đoạn sâu non. Ấu trùng phát triển và cuối cùng biến thái thành nhộng (pupa - một giai đoạn được bao bọc trong kén) ở một số loài. Ở trạng thái kén, chúng trải qua những thay đổi đáng kể về hình dạng và cuối cùng chui ra khỏi kén như một con trưởng thành hay còn gọi là hoá vũ. Bướm là một ví dụ tiêu biểu cho bọn côn trùng có biến thái hoàn toàn.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
Nhiều loài côn trùng có các cơ quan cảm giác rất tinh tế. Trong một số trường hợp, các giác quan của chúng nhạy cảm hơn con người rất nhiều. Ví dụ, ong có thể nhìn được trong quang phổ bức xạ cực tím để tìm kiếm nơi hút mật là những bông hoa có bức xạ này để "dẫn đường" cho ong. Bướm đực có cái "mũi chuyên hóa" là đôi ăng ten (ở bướm ngày ăng ten có chóp tròn ở đầu mút và ở ngài (bướm đêm) lại có dạng lông vũ hoặc không có đầu mút tròn) có thể ngửi thấy pheromon của bướm cái từ khoảng cách vài km.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
1. Tập tính sinh sản:
a. Hoạt động ghép đôi
Hoạt động ghép đôi gồm các quan hệ đực, cái trước sinh đẻ. Trong hoạt động ghép đôi, việc phát ra các tín hiệu kích thích và kêu gọi con cái là rất quan trọng kích thích chủ yếu từ bên ngoài nhờ cơ quan thụ cảm khứu giác, thị giác, thính giác.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
1. Tập tính sinh sản:
a. Hoạt động ghép đôi
b. Hoạt động sinh sản, chăm sóc và bảo vệ thế hệ sau.
Đây là giai đoạn đẻ trứng của con cái, kết thúc các hoạt động ghép đôi, chúng chuyển sang giai đoạn phát triển cá thể.
Môi trường sống của sâu bọ ở các giai đoạn phát triển cũng khác nhau: Ấu trùng của chuồn chuồn ( con bà mụ) sống ở nước. Trong khi đó chuồn chuồn trưởng thành sống trên cạn.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
2. Tập tính thích nghi và tồn tại
Bốn trăm triệu năm tồn tại trên trái đất cũng là bốn trăm nghìn năm côn trùng liên tục đấu tranh sinh tồn để đạt được ngôi vị thống lĩnh về số lượng trong giới động vật như ngày nay. Khi mà tác động của môi trường ngày càng thu nhỏ kích thước của côn trùng trong quá trình tiến hoá thì mỗi động vật yếu ớt và bé nhỏ ấy phải tự trang bị cho mình một thứ vũ khí bí mật để tồn tại trước các loài săn mồi, tạo nên một thế giới sinh vật vô cùng phong phú về các phương pháp lẩn trốn và ngụy trang.
- Ngụy trang: Bằng màu sắc và hình dáng của cơ thể, chúng thường ngụy trang thành các vật thể của môi trường sống. Ví dụ: Cành cây, lá khô,...
- Giả trang: Côn trùng thường giả trang thành các con có độc để đe dọa đối phương.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
3. Tập tính dinh dưỡng
Phần lớn đây là tập tính học được từ bố mẹ, từ quá trình sồng của bản thân động vật, d? phự h?p v?i cỏc cỏch san b?t v ki?m m?i d?c trung c?a t?ng loi.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
4. Tập tính xã hội
Các côn trùng có tập tính xã hội như kiến, mối hay ong, chúng sống cùng nhau trong một tập đoàn lớn và được tổ chức rất tốt. Các cá thể trong tập đoàn tương đối giống nhau về bộ gen (do trinh sản) nên người ta có thể coi cả tập đoàn như một "siêu cơ thể". Đứng đầu một thị tộc côn trùng như vậy là con chúa - con cái duy nhất có khả năng sinh sản, và chỉ đảm nhiệm chức vụ này trong bầy và là mẹ của mọi con côn trùng khác trong thị tộc, bao gồm những con thợ là những con cái không có khả năng sinh sản, thực hiện mọi nhiệm vụ của tổ, từ kiếm thức ăn, vệ sinh tổ và vệ sinh con chúa, chăm sóc ấu trùng ...
* Ở một vài loài và ở một số giai đoạn biến thái chúng có thời kỳ ngủ đông (hibernate) và thời kỳ đình dục (diapause).
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
IIi. THẦN KINH
Não bộ sâu bọ phát triển, gồm 3 phần: Não trước, não giữa và não sau. Đây chính là cơ sở lưu giữ những tập tính bản năng của sâu bọ.
Não nộ
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
Một trong những lí do giúp côn trùng không ngừng tồn tại, tiến hóa và phát triển trong suốt hàng trăm triệu năm qua, thích ứng với mọi môi trường sống, chính là một hệ thống giác quan cực kì nhanh nhạy và chính xác mà tạo hóa trang bị cho chúng, được sử dụng trong mọi hoạt động di chuyển, tìm kiếm thức ăn, trốn tránh kẻ thù và sinh sản.
Kiến có thị giác kém hơn, thích ứng với đời sống dưới lòng đất tối tăm, không bay lượn, giao tiếp bằng các mùi hóa học.
Chuồn chuồn ngô với một cái đầu... toàn mắt.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
1. Xúc giác: Biểu thị dưới dạng lông và các râu của chúng, đặc biệt là 2 râu dài phía trước
Những côn trùng ưa tối và hoạt động vào ban đêm (như gián), có cuộc sống chật chội dưới những hào sâu trong lòng đất (như kiến và mối thì có thị giác rất kém. Bù lại, con gián có đôi ăngten dài có vai trò xúc giác (chạm vào các vật thể xung quanh như chiếc gậy dò đường của người mù).
2. Khứu giác: Vai trò khứu giác giúp chúng tìm ra thức ăn, nhờ có những lông xúc giác cực nhạy nhô ra từ đằng sau bụng có thể cảm nhận mọi rung động nhỏ nhất của không khí và mặt đất xung quanh giúp chúng biến mất ngay khi con người xuất hiện ...
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
3. Vị giác: Là các nhú lồi ở tua miệng hay ở đầu chân (Bướm). Giúp côn trùng có thể nhận ra các vị dù nồng độ pha rất loãng.
Thị giác của côn trùng thuộc hàng tốt nhất trong thế giới động vật. Và chúng lại có tới hai loại mắt: mắt kép và mắt đơn. Mỗi mắt kép của côn trùng được tạo nên bởi hàng trăm, hàng nghìn thấu kính nhỏ (là một tế bào thị giác) có kích thước hiển vi, mỗi thấu kính lại tiếp nhận một hình ảnh giống hệt nhau, điều đó có nghĩa là nếu bạn đứng trước một con ruồi, thì trong mắt nó, hình ảnh của khuôn mặt bạn sẽ được nhân lên hàng nghìn lần để hiển thị trên cũng ngần ấy thấu kính tí hon. Trong khi đó, mỗi mắt đơn chỉ được cấu tạo bởi một thấu kính như vậy, và chỉ có tác dụng cảm nhận sáng tối mà thôi...
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
4. Thị giác:
Một số côn trùng có cả mắt đơn và mắt kép, trong khi những côn trùng khác chỉ có mắt đơn. Đặc biệt, mắt của côn trùng không chỉ nằm trên đầu. Các nhà khoa học đã thử bịt kín đầu của một con côn trùng, nhưng nó vẫn cảm nhận được vùng có ánh sáng nhờ những tế bào thị giác nằm rải rác trên cơ thể.
Những côn trùng có lối sống săn mồi và ham thích bay lượn vào ban ngày như chuồn chuồn, ruồi, bọ ngựa, ong, bướm và bọ cánh cứng thường có thị giác rất tốt, bằng chứng là đôi mắt của chúng gần như bao trùm một nửa hay toàn bộ cái đầu.
5. Thính giác: Lông và các râu của sâu bọ rất nhạy với các giao động âm, Giúp chúng định hướng được nguồn âm phát ra, thậm chí có loài còn nghe được cả siêu âm.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Chỉ có 0,1% các loài côn trùng là đi ngược lại lợi ích của con người. Nhiều côn trùng được coi là những con vật có hại với loài người vì chúng truyền bệnh (ruồi, muỗi), phá hủy các công trình (mối), hay làm hỏng các sản phẩm lương thực (mọt).
Mặc dù các côn trùng có hại thường nhận được nhiều sự quan tâm hơn, bên cạnh đó vẫn có nhiều loài có lợi cho môi trường và con người. Một số loài thụ phấn cho các loài thực vật có hoa (ví dụ ong, bướm, kiến...).
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Một số côn trùng cũng sinh ra những chất rất hữu ích như mật, sáp, tơ. Ong mật đã được con người nuôi từ hàng ngàn năm nay để lây mật. Tơ tằm đã có ảnh hưởng rất lớn tới lịch sử loài người, các mối quan hệ thương mại được thiết lập trên con đường vận chuyển tơ lụa giữa Trung Quốc và phần còn lại của thế giới
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Nhiều nơi trên thế giới, côn trùng được sử dụng làm thức ăn cho con người
Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài cánh cứng là những bọn ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài cánh cứng là những bọn ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Hầu hết chúng ta đều không ý thức được rằng, lợi ích lớn nhất của côn trùng chính là loài ăn côn trùng (insectivores). Nhiều loài côn trùng như châu chấu có thể sinh sản nhanh đến nỗi mà chúng có thể bao phủ Trái Đất chỉ trong một mùa sinh sản. Tuy nhiên có hàng trăm loài côn trùng khác ăn trứng của châu chấu, một số khác thì ăn cả những con trưởng thành. Vai trò này trong sinh thái thường được cho là của các loài chim, nhưng chính côn trùng, mặc dù không thực sự quyến rũ như những loài lông vũ kia mới chính là những con vật có vai trò quan trọng hơn.
Báo cáo thu hoạch
Ghi lại ngắn gọn về các tập tính của sâu bọ sau khi tìm hiểu xong nội dung của bài, bằng cách hoàn thành nội dung bảng dưới đây:
bài học kết thúc
chúc các em học tốt
Nguyễn Mạnh Hùng.
TP Điện Biên Phủ
Sinh học 7
Sinh HọC LớP 7
Thực hành
Xem băng hình về tập tính
các loài sâu bọ
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Em hiểu biết gì về các loài côn trùng (sâu bọ)?
Giới thiệu chung về côn trùng(sâu bọ)
Côn trùng, hay sâu bọ, là những động vật không xương sống có tên khoa học là lớp Insecta (lớp Côn trùng), là lớp lớn nhất trên Trái Đất và cũng là lớp phân bố rộng rãi nhất trong số các đại diện của ngành Chân khớp (Arthropoda). Côn trùng là nhóm đa dạng nhất trên Trái Đất, với hơn 1 triệu loài đã được mô tả-chiếm hơn một nửa tổng số tất cả các loài sinh vật sống mà con người biết đến với ước lượng về số loài chưa được mô tả lên tới 30 triệu, và do đó có thể đại diện cho hơn 90% các dạng sống khác nhau trên hành tinh. Người ta có thể tìm thấy côn trùng ở gần như tất cả các môi trường sống trên Trái Đất, mặc dù chỉ có một số lượng nhỏ các loài có thể thích nghi được với đời sống ở đại dương, nơi mà giáp xác là nhóm chiếm ưu thế. Có khoảng 5.000 loài chuồn chuồn; 2.000 loài bọ ngựa; 20.000 loài châu chấu; 17.000 loài bướm; 120.000 loài hai cánh; 82.000 loài cánh nửa; 350.000 loài cánh cứng và khoảng 110.000 loài cánh màng. Côn trùng thực sự (mà được phân loại vào lớp côn trùng) có các đặc điểm sau: thứ nhất, cơ thể của một thành trùng (cá thể trưởng thành của loài) phải phân thành 3 phần tất cả: đầu, ngực và bụng. Thứ hai, thành trùng phải có tất cả ba đôi chân được gắn vào các đốt ngực, hai đôi râu (ăngten) trên đầu, và phần bụng được phân chia thành nhiều đốt (≤11 đốt). Phần lớn (không phải tất cả) côn trùng trưởng thành đều có cánh. Khoa học nghiên cứu về côn trùng được gọi là côn trùng học (entomology).
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Kích thước côn trùng dao động khoảng từ trên dưới 1 mm tới khoảng 180 mm về chiều dài. Côn trùng có cơ thể phân đốt và được bảo vệ bởi một bộ xương ngoài, một lớp cứng được cấu tạo chủ yếu bởi kitin. Cơ thể được chia thành đầu, ngực và bụng. Trên đầu có một cặp râu là cơ quan cảm giác, một cặp mắt kép và 2 mắt đơn (ở giai đoạn sâu non có thể là 6 mắt đơn) và một miệng. Ngực có 6 chân (mỗi đốt một cặp chân) và 2-4 cánh (ở các loài có cánh). Bụng có cơ quan bài tiết và cơ quan sinh sản. Côn trùng có một hệ tiêu hoá hoàn chỉnh, gồm một ống liên tục từ miệng tới hậu môn, khác với nhiều loài động vật chân khớp đơn giản khác có hệ tiêu hoá chưa hoàn chỉnh. Cơ quan bài tiết gồm các ống Manphigi (Malpighian), với chức năng thải các chất thải chứa nitơ, ruột sau làm nhiệm vụ điều hoà áp suất thẩm thấu, đoạn cuối ruột sau có khả năng tái hấp thu nước cùng với muối Natri và Kali. Vì vậy, côn trùng thường không bài tiết nước ra cùng với phân, thực tế thì chúng cho phép dự trữ nước trong cơ thể. Quá trình tái hấp thu này giúp chúng có thể chịu đựng được với điều kiện môi trường khô và nóng.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Hầu hết côn trùng có hai cặp cánh liên kết với đốt ngực 2 và 3. Côn trùng là động vật không xương sống duy nhất đã tiến hoá theo hướng bay lượn và chính điều này đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của chúng. Các côn trùng có cánh, và những côn trùng không cánh thứ sinh đã tạo nên nhóm có cánh (Pterygota). Cơ chế bay của côn trùng cho đến nay vẫn chưa được tìm hiểu một cách đầy đủ, người ta cho rằng nó phụ thuộc rất lớn vào khối không khí nhiễu loạn do cánh tạo ra. Ở những côn trùng nguyên thuỷ lại dựa chủ yếu vào tác động của hệ cơ lên cánh và cấu trúc của cánh. Ở những bộ tiến hoá hơn như Neoptera, cánh thường gập lại trên lưng khi chúng nghỉ ngơi. Ở những côn trùng này, cánh được hoạt động bởi các cơ bay gián tiếp mà giúp cánh vận động bằng cách ép mạnh lên thành ngực. Những cơ này có thể co lại khi bị căng ra mà không cần sự điều khiển của hệ thần kinh, điều này cho phép chúng tạo ra tần số co dãn cơ tương đối cao.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Côn trùng sử dụng cơ quan hô hấp khí quản để vận chuyển ôxy vào trong cơ thể. Các ống khí này mở ra ở bề mặt cơ thể và được gọi là lỗ thở (mỗi đốt có 1 đôi lỗ thở ở 2 bên), từ đây không khí được dẫn vào hệ thống khí quản. Không khí đi vào các mô thông qua các nhánh khí quản. Vòng tuần hoàn của côn trùng, cũng như tất cả các chân khớp khác là một hệ hở. Tim bơm dịch huyết vào động mạch qua xoang tim.
Côn trùng nở từ trứng, trải qua nhiều lần lột xác trước khi đạt tới kích thước trưởng thành của loài. Cách sinh trưởng này là bắt buộc vì chúng có bộ xương cứng bên ngoài, được cấu tạo chủ yếu bởi kitin (chitin). Lột xác là quá trình mà con vật thoát khỏi lớp xương ngoài cũ để tăng lên về kích thước, sau đó hình thành nên bộ xương ngoài mới, vì lớp xương ngoài bằng kitin hoặc đá vôi của các loài chân khớp không thể tăng lên về kích cỡ, trong khi cơ thể của chúng luôn luôn lớn lên cho tới lúc trưởng thành. Ở hầu hết các loài côn trùng, giai đoạn trẻ được gọi là thiếu trùng (nymph). Thiếu trùng có thể có cấu tạo tương tự như Thành trùng như ở châu chấu (mặc dù cánh chỉ phát triển đầy đủ cho đến giai đoạn trưởng thành). Đây là những côn trùng biến thái không hoàn toàn.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Một mảnh xác lột đã từng là bộ xương ngoài cấu tạo bởi kitin của loài bọ ngựa (thuộc bộ Mantidae), bị lột bỏ khi cơ thể lớn lên về kích cỡ.
Vòng đời phát triển của châu chấu
Ở những côn trùng biến thái hoàn toàn (hầu hết côn trùng), trứng nở thành dạng ấu trùng, có dạng giống như giun đất, gọi là giai đoạn sâu non. Ấu trùng phát triển và cuối cùng biến thái thành nhộng (pupa - một giai đoạn được bao bọc trong kén) ở một số loài. Ở trạng thái kén, chúng trải qua những thay đổi đáng kể về hình dạng và cuối cùng chui ra khỏi kén như một con trưởng thành hay còn gọi là hoá vũ. Bướm là một ví dụ tiêu biểu cho bọn côn trùng có biến thái hoàn toàn.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
I. Hình Thái và phát triển
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
Nhiều loài côn trùng có các cơ quan cảm giác rất tinh tế. Trong một số trường hợp, các giác quan của chúng nhạy cảm hơn con người rất nhiều. Ví dụ, ong có thể nhìn được trong quang phổ bức xạ cực tím để tìm kiếm nơi hút mật là những bông hoa có bức xạ này để "dẫn đường" cho ong. Bướm đực có cái "mũi chuyên hóa" là đôi ăng ten (ở bướm ngày ăng ten có chóp tròn ở đầu mút và ở ngài (bướm đêm) lại có dạng lông vũ hoặc không có đầu mút tròn) có thể ngửi thấy pheromon của bướm cái từ khoảng cách vài km.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
1. Tập tính sinh sản:
a. Hoạt động ghép đôi
Hoạt động ghép đôi gồm các quan hệ đực, cái trước sinh đẻ. Trong hoạt động ghép đôi, việc phát ra các tín hiệu kích thích và kêu gọi con cái là rất quan trọng kích thích chủ yếu từ bên ngoài nhờ cơ quan thụ cảm khứu giác, thị giác, thính giác.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
1. Tập tính sinh sản:
a. Hoạt động ghép đôi
b. Hoạt động sinh sản, chăm sóc và bảo vệ thế hệ sau.
Đây là giai đoạn đẻ trứng của con cái, kết thúc các hoạt động ghép đôi, chúng chuyển sang giai đoạn phát triển cá thể.
Môi trường sống của sâu bọ ở các giai đoạn phát triển cũng khác nhau: Ấu trùng của chuồn chuồn ( con bà mụ) sống ở nước. Trong khi đó chuồn chuồn trưởng thành sống trên cạn.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
2. Tập tính thích nghi và tồn tại
Bốn trăm triệu năm tồn tại trên trái đất cũng là bốn trăm nghìn năm côn trùng liên tục đấu tranh sinh tồn để đạt được ngôi vị thống lĩnh về số lượng trong giới động vật như ngày nay. Khi mà tác động của môi trường ngày càng thu nhỏ kích thước của côn trùng trong quá trình tiến hoá thì mỗi động vật yếu ớt và bé nhỏ ấy phải tự trang bị cho mình một thứ vũ khí bí mật để tồn tại trước các loài săn mồi, tạo nên một thế giới sinh vật vô cùng phong phú về các phương pháp lẩn trốn và ngụy trang.
- Ngụy trang: Bằng màu sắc và hình dáng của cơ thể, chúng thường ngụy trang thành các vật thể của môi trường sống. Ví dụ: Cành cây, lá khô,...
- Giả trang: Côn trùng thường giả trang thành các con có độc để đe dọa đối phương.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
3. Tập tính dinh dưỡng
Phần lớn đây là tập tính học được từ bố mẹ, từ quá trình sồng của bản thân động vật, d? phự h?p v?i cỏc cỏch san b?t v ki?m m?i d?c trung c?a t?ng loi.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
II. một số Tập tính quan trong của sâu bọ
4. Tập tính xã hội
Các côn trùng có tập tính xã hội như kiến, mối hay ong, chúng sống cùng nhau trong một tập đoàn lớn và được tổ chức rất tốt. Các cá thể trong tập đoàn tương đối giống nhau về bộ gen (do trinh sản) nên người ta có thể coi cả tập đoàn như một "siêu cơ thể". Đứng đầu một thị tộc côn trùng như vậy là con chúa - con cái duy nhất có khả năng sinh sản, và chỉ đảm nhiệm chức vụ này trong bầy và là mẹ của mọi con côn trùng khác trong thị tộc, bao gồm những con thợ là những con cái không có khả năng sinh sản, thực hiện mọi nhiệm vụ của tổ, từ kiếm thức ăn, vệ sinh tổ và vệ sinh con chúa, chăm sóc ấu trùng ...
* Ở một vài loài và ở một số giai đoạn biến thái chúng có thời kỳ ngủ đông (hibernate) và thời kỳ đình dục (diapause).
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
IIi. THẦN KINH
Não bộ sâu bọ phát triển, gồm 3 phần: Não trước, não giữa và não sau. Đây chính là cơ sở lưu giữ những tập tính bản năng của sâu bọ.
Não nộ
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
Một trong những lí do giúp côn trùng không ngừng tồn tại, tiến hóa và phát triển trong suốt hàng trăm triệu năm qua, thích ứng với mọi môi trường sống, chính là một hệ thống giác quan cực kì nhanh nhạy và chính xác mà tạo hóa trang bị cho chúng, được sử dụng trong mọi hoạt động di chuyển, tìm kiếm thức ăn, trốn tránh kẻ thù và sinh sản.
Kiến có thị giác kém hơn, thích ứng với đời sống dưới lòng đất tối tăm, không bay lượn, giao tiếp bằng các mùi hóa học.
Chuồn chuồn ngô với một cái đầu... toàn mắt.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
1. Xúc giác: Biểu thị dưới dạng lông và các râu của chúng, đặc biệt là 2 râu dài phía trước
Những côn trùng ưa tối và hoạt động vào ban đêm (như gián), có cuộc sống chật chội dưới những hào sâu trong lòng đất (như kiến và mối thì có thị giác rất kém. Bù lại, con gián có đôi ăngten dài có vai trò xúc giác (chạm vào các vật thể xung quanh như chiếc gậy dò đường của người mù).
2. Khứu giác: Vai trò khứu giác giúp chúng tìm ra thức ăn, nhờ có những lông xúc giác cực nhạy nhô ra từ đằng sau bụng có thể cảm nhận mọi rung động nhỏ nhất của không khí và mặt đất xung quanh giúp chúng biến mất ngay khi con người xuất hiện ...
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
3. Vị giác: Là các nhú lồi ở tua miệng hay ở đầu chân (Bướm). Giúp côn trùng có thể nhận ra các vị dù nồng độ pha rất loãng.
Thị giác của côn trùng thuộc hàng tốt nhất trong thế giới động vật. Và chúng lại có tới hai loại mắt: mắt kép và mắt đơn. Mỗi mắt kép của côn trùng được tạo nên bởi hàng trăm, hàng nghìn thấu kính nhỏ (là một tế bào thị giác) có kích thước hiển vi, mỗi thấu kính lại tiếp nhận một hình ảnh giống hệt nhau, điều đó có nghĩa là nếu bạn đứng trước một con ruồi, thì trong mắt nó, hình ảnh của khuôn mặt bạn sẽ được nhân lên hàng nghìn lần để hiển thị trên cũng ngần ấy thấu kính tí hon. Trong khi đó, mỗi mắt đơn chỉ được cấu tạo bởi một thấu kính như vậy, và chỉ có tác dụng cảm nhận sáng tối mà thôi...
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
4. Thị giác:
Một số côn trùng có cả mắt đơn và mắt kép, trong khi những côn trùng khác chỉ có mắt đơn. Đặc biệt, mắt của côn trùng không chỉ nằm trên đầu. Các nhà khoa học đã thử bịt kín đầu của một con côn trùng, nhưng nó vẫn cảm nhận được vùng có ánh sáng nhờ những tế bào thị giác nằm rải rác trên cơ thể.
Những côn trùng có lối sống săn mồi và ham thích bay lượn vào ban ngày như chuồn chuồn, ruồi, bọ ngựa, ong, bướm và bọ cánh cứng thường có thị giác rất tốt, bằng chứng là đôi mắt của chúng gần như bao trùm một nửa hay toàn bộ cái đầu.
5. Thính giác: Lông và các râu của sâu bọ rất nhạy với các giao động âm, Giúp chúng định hướng được nguồn âm phát ra, thậm chí có loài còn nghe được cả siêu âm.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. giác quan của côn trùng
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Chỉ có 0,1% các loài côn trùng là đi ngược lại lợi ích của con người. Nhiều côn trùng được coi là những con vật có hại với loài người vì chúng truyền bệnh (ruồi, muỗi), phá hủy các công trình (mối), hay làm hỏng các sản phẩm lương thực (mọt).
Mặc dù các côn trùng có hại thường nhận được nhiều sự quan tâm hơn, bên cạnh đó vẫn có nhiều loài có lợi cho môi trường và con người. Một số loài thụ phấn cho các loài thực vật có hoa (ví dụ ong, bướm, kiến...).
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Một số côn trùng cũng sinh ra những chất rất hữu ích như mật, sáp, tơ. Ong mật đã được con người nuôi từ hàng ngàn năm nay để lây mật. Tơ tằm đã có ảnh hưởng rất lớn tới lịch sử loài người, các mối quan hệ thương mại được thiết lập trên con đường vận chuyển tơ lụa giữa Trung Quốc và phần còn lại của thế giới
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Nhiều nơi trên thế giới, côn trùng được sử dụng làm thức ăn cho con người
Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài cánh cứng là những bọn ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Nhiều côn trùng, đặc biệt là các loài cánh cứng là những bọn ăn xác thối, chúng ăn các xác động vật chết, các cây bị gãy mục, trả lại môi trường các dạng hữu ích cho các sinh vật khác sử dụng.
Xem băng hình về tập tính các loài sâu bọ
Iv. vai trò của công trùng với đời sống và con người
Hầu hết chúng ta đều không ý thức được rằng, lợi ích lớn nhất của côn trùng chính là loài ăn côn trùng (insectivores). Nhiều loài côn trùng như châu chấu có thể sinh sản nhanh đến nỗi mà chúng có thể bao phủ Trái Đất chỉ trong một mùa sinh sản. Tuy nhiên có hàng trăm loài côn trùng khác ăn trứng của châu chấu, một số khác thì ăn cả những con trưởng thành. Vai trò này trong sinh thái thường được cho là của các loài chim, nhưng chính côn trùng, mặc dù không thực sự quyến rũ như những loài lông vũ kia mới chính là những con vật có vai trò quan trọng hơn.
Báo cáo thu hoạch
Ghi lại ngắn gọn về các tập tính của sâu bọ sau khi tìm hiểu xong nội dung của bài, bằng cách hoàn thành nội dung bảng dưới đây:
bài học kết thúc
chúc các em học tốt
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Anh Thu
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)