Bài 27. Bến quê
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Hồng Duyên |
Ngày 08/05/2019 |
29
Chia sẻ tài liệu: Bài 27. Bến quê thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
Nguyễn Minh Châu
Bến quê
I/ Đọc – Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu ( 1930 – 1989 ), quê ở Quỳnh Lưu – Nghệ An.
- Ông gia nhập quân đội năm 1950, sau đó trở thành nhà văn quân đội
- Nguyễn Minh Châu là cây bút tiêu biểu cho văn xuôi thời kì kháng chiến chống Mĩ.
- Tác phẩm tiêu biểu: Dấu chân người lính (tiểu thuyết), Mảnh trăng cuối rừng (truyện ngắn), Bức tranh (truyện ngắn)…
2. Tác phẩm:
Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên, xuất bản năm 1985.
3. Đọc văn bản, tìm hiểu chú thích:
- Lưu ý: Giọng trầm tư, suy ngẫm xen với xúc động và đượm buồn, có cả sự ân hận và xót xa.
(Trong tâm thế của nhân vật đang bị bệnh hiểm nghèo).
4. Kể tóm tắt truyện:
▪ Buổi sáng đầu thu, Nhĩ nằm trên giường bệnh để vợ chải tóc và đỡ ngồi dậy.
▪ Nhìn qua cửa sổ, Nhĩ trông thấy cảnh bên kia sông Hồng quen thuộc mà mình chưa bao giờ đặt chân tới.
▪ Nhĩ trò chuyện với vợ và quan sát vợ, anh chợt nhận ra vợ vất vả với tình yêu thương chồng.
▪ Nhĩ sai Tuấn- đứa con trai thứ hai thay mình qua bên kia sông nhưng con anh lại mải xem đánh cờ để lỡ một chuyến đò sang sông.
▪ Nhĩ chạnh buồn và bồi hồi với cảnh vật xung quanh, với gia đình đầm ấm vì anh sắp phải từ biệt nó để ra đi mãi mãi.
II. Đọc- Hiểu chi tiết văn bản:
1. Nhân vật Nhĩ và tình huống truyện:
- Hoàn cảnh của Nhĩ:
* Nhĩ mắc một căn bệnh hiểm nghèo → liệt toàn thân → mọi sinh hoạt đều nhờ vào người khác (chủ yếu là vợ)
Tình huống thật trớ trêu, nghịch lí:
Tiết 2:
2/ Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ:
a, Cảm nhận về thiên nhiên:
“…Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt – cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ cũng chả phải, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ, chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng với thứ ánh sáng loa lóa vừa nhìn đã thấy chói cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.
Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non
Cảnh được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ từ gần đến xa tạo thành không gian có chiều sâu, rộng
“…những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình”.
Cảnh thiên nhiên vốn quen thuộc, gần gũi nhưng lại trở nên vô cùng mới mẻ với Nhĩ tưởng như lần đầu anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
b, Cảm nhận của Nhĩ về Liên:
“… Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá.
Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm..mà em vẫn nín thinh.
…Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh Liên vẫn đang còn mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ. So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm...Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Nhĩ đã nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ
thực sự thấu hiểu và trỗi dậy lòng biết ơn sâu sắc với vợ. Ý thức được giá trị của hạnh phúc gia đình.
c, Niềm khao khát của Nhĩ:
- Đặt chân lên bãi bồi bên kia sông.
- Khi Nhĩ nhận ra tất cả vẻ đẹp của cảnh vật rất đỗi bình dị và gần gũi qua khung cửa sổ căn phòng, đồng thời cũng hiểu rằng mình sắp phải giã biệt cõi đời.
Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống – những giá trị thường bị người ta lãng quên nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn con người tìm đến.
Câu chuyện của Nhĩ với cậu con trai và sự chiêm nghiệm của anh về một quy luật của đời người:
Nhĩ nhờ con thay mình đi sang bên kia sông, đặt chân lên vùng đất phù sa màu mỡ.
Nhĩ đã gặp một nghịch lý: Cậu con trai không hiểu ước muốn của cha nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn gặp trên đường đi để rồi có thể sẽ bị lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
Nhận ra quy luật phổ biến của đời người: “ Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình ”.
Anh không trách con vì “ vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu”.
III/ Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Sự miêu tả tâm lí tinh tế
- Sử dụng nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng
- Xây dựng tình huống giàu sức bộc lộ
- Trần thuật theo dòng tâm trạng của nhân vật.
2. Nội dung:
Truyện đã thể hiện những suy ngẫm trải nghiệm của nhà văn về cuộc sống cùng với thái độ trân trọng những vẻ đẹp bình dị của quê hương.
Ghi nhớ: SGK/108.
Đoạn cuối truyện:
Khi con đò ngang chạm mũi vào bờ đất bên này sông. Nhĩ thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kì quặc: “ Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.”
Hành động cuối cùng này của Nhĩ thể hiện anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
Hình ảnh này còn có ý nghĩa khái quát hơn: ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sà vào trên đường đời, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
4. Củng cố:
- Những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng :
+ Bến quê: là những gì thân thiết với mỗi người (bông hoa bằng lăng, chuyến đò ngang, bãi bồi sông Hồng, Liên – người vợ tần tảo, những đứa trẻ…) những giá trị bình dị mà bền vững
+ Bãi bồi ven sông: Vẻ đẹp của cuộc sống vừa bình dị vừa thân thuộc – hình ảnh của quê hương xứ sở.
+ Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn; tiếng tảng đất lở ở bờ sông bên này khi cơn lũ đầu nguồn dồn về đổ ụp vào trong giấc ngủ của Nhĩ: gợi sự sống của nhân vật vào những ngày cuối của cuộc đời.
+ Đứa con trai Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường gợi ra điều mà Nhĩ gọi là sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời người ta khó tránh khỏi.
+ Hành động cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện: nhắc nhở con người hãy thoát ra khỏi những cái chùng chình để hướng tới giá trị đích thực.
Bến quê
I/ Đọc – Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu ( 1930 – 1989 ), quê ở Quỳnh Lưu – Nghệ An.
- Ông gia nhập quân đội năm 1950, sau đó trở thành nhà văn quân đội
- Nguyễn Minh Châu là cây bút tiêu biểu cho văn xuôi thời kì kháng chiến chống Mĩ.
- Tác phẩm tiêu biểu: Dấu chân người lính (tiểu thuyết), Mảnh trăng cuối rừng (truyện ngắn), Bức tranh (truyện ngắn)…
2. Tác phẩm:
Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên, xuất bản năm 1985.
3. Đọc văn bản, tìm hiểu chú thích:
- Lưu ý: Giọng trầm tư, suy ngẫm xen với xúc động và đượm buồn, có cả sự ân hận và xót xa.
(Trong tâm thế của nhân vật đang bị bệnh hiểm nghèo).
4. Kể tóm tắt truyện:
▪ Buổi sáng đầu thu, Nhĩ nằm trên giường bệnh để vợ chải tóc và đỡ ngồi dậy.
▪ Nhìn qua cửa sổ, Nhĩ trông thấy cảnh bên kia sông Hồng quen thuộc mà mình chưa bao giờ đặt chân tới.
▪ Nhĩ trò chuyện với vợ và quan sát vợ, anh chợt nhận ra vợ vất vả với tình yêu thương chồng.
▪ Nhĩ sai Tuấn- đứa con trai thứ hai thay mình qua bên kia sông nhưng con anh lại mải xem đánh cờ để lỡ một chuyến đò sang sông.
▪ Nhĩ chạnh buồn và bồi hồi với cảnh vật xung quanh, với gia đình đầm ấm vì anh sắp phải từ biệt nó để ra đi mãi mãi.
II. Đọc- Hiểu chi tiết văn bản:
1. Nhân vật Nhĩ và tình huống truyện:
- Hoàn cảnh của Nhĩ:
* Nhĩ mắc một căn bệnh hiểm nghèo → liệt toàn thân → mọi sinh hoạt đều nhờ vào người khác (chủ yếu là vợ)
Tình huống thật trớ trêu, nghịch lí:
Tiết 2:
2/ Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ:
a, Cảm nhận về thiên nhiên:
“…Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt – cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ cũng chả phải, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ, chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng với thứ ánh sáng loa lóa vừa nhìn đã thấy chói cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.
Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non
Cảnh được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ từ gần đến xa tạo thành không gian có chiều sâu, rộng
“…những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình”.
Cảnh thiên nhiên vốn quen thuộc, gần gũi nhưng lại trở nên vô cùng mới mẻ với Nhĩ tưởng như lần đầu anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
b, Cảm nhận của Nhĩ về Liên:
“… Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá.
Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm..mà em vẫn nín thinh.
…Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh Liên vẫn đang còn mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ. So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm...Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Nhĩ đã nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ
thực sự thấu hiểu và trỗi dậy lòng biết ơn sâu sắc với vợ. Ý thức được giá trị của hạnh phúc gia đình.
c, Niềm khao khát của Nhĩ:
- Đặt chân lên bãi bồi bên kia sông.
- Khi Nhĩ nhận ra tất cả vẻ đẹp của cảnh vật rất đỗi bình dị và gần gũi qua khung cửa sổ căn phòng, đồng thời cũng hiểu rằng mình sắp phải giã biệt cõi đời.
Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống – những giá trị thường bị người ta lãng quên nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn con người tìm đến.
Câu chuyện của Nhĩ với cậu con trai và sự chiêm nghiệm của anh về một quy luật của đời người:
Nhĩ nhờ con thay mình đi sang bên kia sông, đặt chân lên vùng đất phù sa màu mỡ.
Nhĩ đã gặp một nghịch lý: Cậu con trai không hiểu ước muốn của cha nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn gặp trên đường đi để rồi có thể sẽ bị lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
Nhận ra quy luật phổ biến của đời người: “ Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình ”.
Anh không trách con vì “ vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu”.
III/ Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Sự miêu tả tâm lí tinh tế
- Sử dụng nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng
- Xây dựng tình huống giàu sức bộc lộ
- Trần thuật theo dòng tâm trạng của nhân vật.
2. Nội dung:
Truyện đã thể hiện những suy ngẫm trải nghiệm của nhà văn về cuộc sống cùng với thái độ trân trọng những vẻ đẹp bình dị của quê hương.
Ghi nhớ: SGK/108.
Đoạn cuối truyện:
Khi con đò ngang chạm mũi vào bờ đất bên này sông. Nhĩ thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kì quặc: “ Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.”
Hành động cuối cùng này của Nhĩ thể hiện anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
Hình ảnh này còn có ý nghĩa khái quát hơn: ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sà vào trên đường đời, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
4. Củng cố:
- Những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng :
+ Bến quê: là những gì thân thiết với mỗi người (bông hoa bằng lăng, chuyến đò ngang, bãi bồi sông Hồng, Liên – người vợ tần tảo, những đứa trẻ…) những giá trị bình dị mà bền vững
+ Bãi bồi ven sông: Vẻ đẹp của cuộc sống vừa bình dị vừa thân thuộc – hình ảnh của quê hương xứ sở.
+ Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn; tiếng tảng đất lở ở bờ sông bên này khi cơn lũ đầu nguồn dồn về đổ ụp vào trong giấc ngủ của Nhĩ: gợi sự sống của nhân vật vào những ngày cuối của cuộc đời.
+ Đứa con trai Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường gợi ra điều mà Nhĩ gọi là sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời người ta khó tránh khỏi.
+ Hành động cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện: nhắc nhở con người hãy thoát ra khỏi những cái chùng chình để hướng tới giá trị đích thực.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Hồng Duyên
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)