Bài 23. Viếng lăng Bác
Chia sẻ bởi Trần Trọng Khải |
Ngày 07/05/2019 |
28
Chia sẻ tài liệu: Bài 23. Viếng lăng Bác thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
VIẾNG LĂNG BÁC
Viễn Phương
Đọc – hiểu chú thích
1. Tác giả
2. Tác phẩm
II) Đọc – hiểu văn bản
1. Khổ 1
2. Khổ 2
3. Khổ 3
4. Khổ 4
III) Tổng kết
Nội dung trình bày
Phan Thanh Viễn (1928 – 2005), quê ở An Giang.
Cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mỹ.
Tác giả
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Khổ 1
Cách xưng hô “con-Bác”: vừa biểu lộ sự thành kính vừa thể hiện tình nhớ thương tha thiết, gợi niềm háo hức chất chứa từ lâu.
Hình ảnh hàng tre: rất thân thuộc của làng quê Việt Nam, tượng trưng cho con người Việt Nam.
Ôi: từ cảm thán biểu thị sự tự hào bởi tre mang phẩm chất quý giá của người Việt Nam “ngay thẳng, bất khuất” dù trải qua bao “bão táp mưa sa”.
Đứng thẳng hàng: biện pháp nhân hóa hàng tre làm ta tự hào về dáng đứng của dân tộc.
Khổ 1
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Khổ 2
“Ngày ngày”: điệp từ, gợi hình ảnh tiếp nối nhau không có điểm dừng, có ẩn ý sự thương nhớ Bác của dân tộc không lúc nào nguôi.
Hình ảnh mặt trời: Ở câu 1 là mặt trời thật và là ngọn nguồn của sự sống. Ở câu 2 là mặt trời ẩn dụ, tượng trưng cho Bác với ngụ ý cách mạng Việt Nam cần Bác như trái đất cần ánh sáng mặt trời.
Câu cuối: là hình ảnh so sánh, dòng người viếng Bác như một tràng hoa dâng lên Bác. Từ “dâng” chất chứa tình cảm kính trọng. “bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói đầy sáng tạo, ẩn dụ cho tuổi thọ của Bác
Khổ 2
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Khổ 3
2 câu đầu: với biện pháp liên tưởng, nhà thơ tưởng tượng ánh sáng đang tỏa xung quanh như ánh sáng của “vầng trăng” dịu hiền gợi cho ta nghĩ đến tâm hồn thanh cao của Bác với niềm xúc động chân thành, đau xót.
2 câu cuối: vẫn tin Bác sẽ sống mãi với non sông đất nước như trời xanh mãi mãi tồn tại nhưng vẫn không thể không đau xót vì thực tế Người đã ra đi. Sao lại có thể không “nhói ở trong tim”.
Khổ 3
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Khổ 4
Câu đầu: như một lời chào vừa thành kính vừa tha thiết của người dân đối với lãnh tụ kính yêu.
“Muốn làm”: được lặp 3 lần để thể hiện cảm xúc chân thành của tác giả. Nhà thơ muốn làm con chim, đóa hoa, hay cây tre hoặc có thể là bất cứ cái gì để có thể được gần gũi và tô đẹp thêm lăng Bác.
Cây tre: hình ảnh đã xuất hiện ở Khổ đầu và xuất hiện lại ở Khổ cuối để gợi lên phẩm chất con người trọn trung trọn hiếu, trọn 1 tấm lòng với Bác kính yêu.
Khổ 4
Tổng kết
Bài thơ tuy có ngôn từ giản dị, mộc mạc nhưng giàu chất suy tưởng, lãng mạn trữ tình. Với nhứng biện pháp tu từ trang nhã, giọng thơ nhẹ nhàng êm ái, đôi chỗ day dứt không nguôi, Viễn Phương đã mang đến cho người đọc một cảm xúc thật sự chân thành sâu lắng để cùng ngưỡng mộ, trân trọng vị cha già đã trọn đời hi sinh cho Tổ quốc.
Tổ 4 Nhóm 1
xin chân thành cảm ơn sự theo dõi củaThầy và các bạn
Viễn Phương
Đọc – hiểu chú thích
1. Tác giả
2. Tác phẩm
II) Đọc – hiểu văn bản
1. Khổ 1
2. Khổ 2
3. Khổ 3
4. Khổ 4
III) Tổng kết
Nội dung trình bày
Phan Thanh Viễn (1928 – 2005), quê ở An Giang.
Cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mỹ.
Tác giả
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Khổ 1
Cách xưng hô “con-Bác”: vừa biểu lộ sự thành kính vừa thể hiện tình nhớ thương tha thiết, gợi niềm háo hức chất chứa từ lâu.
Hình ảnh hàng tre: rất thân thuộc của làng quê Việt Nam, tượng trưng cho con người Việt Nam.
Ôi: từ cảm thán biểu thị sự tự hào bởi tre mang phẩm chất quý giá của người Việt Nam “ngay thẳng, bất khuất” dù trải qua bao “bão táp mưa sa”.
Đứng thẳng hàng: biện pháp nhân hóa hàng tre làm ta tự hào về dáng đứng của dân tộc.
Khổ 1
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Khổ 2
“Ngày ngày”: điệp từ, gợi hình ảnh tiếp nối nhau không có điểm dừng, có ẩn ý sự thương nhớ Bác của dân tộc không lúc nào nguôi.
Hình ảnh mặt trời: Ở câu 1 là mặt trời thật và là ngọn nguồn của sự sống. Ở câu 2 là mặt trời ẩn dụ, tượng trưng cho Bác với ngụ ý cách mạng Việt Nam cần Bác như trái đất cần ánh sáng mặt trời.
Câu cuối: là hình ảnh so sánh, dòng người viếng Bác như một tràng hoa dâng lên Bác. Từ “dâng” chất chứa tình cảm kính trọng. “bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói đầy sáng tạo, ẩn dụ cho tuổi thọ của Bác
Khổ 2
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Khổ 3
2 câu đầu: với biện pháp liên tưởng, nhà thơ tưởng tượng ánh sáng đang tỏa xung quanh như ánh sáng của “vầng trăng” dịu hiền gợi cho ta nghĩ đến tâm hồn thanh cao của Bác với niềm xúc động chân thành, đau xót.
2 câu cuối: vẫn tin Bác sẽ sống mãi với non sông đất nước như trời xanh mãi mãi tồn tại nhưng vẫn không thể không đau xót vì thực tế Người đã ra đi. Sao lại có thể không “nhói ở trong tim”.
Khổ 3
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Khổ 4
Câu đầu: như một lời chào vừa thành kính vừa tha thiết của người dân đối với lãnh tụ kính yêu.
“Muốn làm”: được lặp 3 lần để thể hiện cảm xúc chân thành của tác giả. Nhà thơ muốn làm con chim, đóa hoa, hay cây tre hoặc có thể là bất cứ cái gì để có thể được gần gũi và tô đẹp thêm lăng Bác.
Cây tre: hình ảnh đã xuất hiện ở Khổ đầu và xuất hiện lại ở Khổ cuối để gợi lên phẩm chất con người trọn trung trọn hiếu, trọn 1 tấm lòng với Bác kính yêu.
Khổ 4
Tổng kết
Bài thơ tuy có ngôn từ giản dị, mộc mạc nhưng giàu chất suy tưởng, lãng mạn trữ tình. Với nhứng biện pháp tu từ trang nhã, giọng thơ nhẹ nhàng êm ái, đôi chỗ day dứt không nguôi, Viễn Phương đã mang đến cho người đọc một cảm xúc thật sự chân thành sâu lắng để cùng ngưỡng mộ, trân trọng vị cha già đã trọn đời hi sinh cho Tổ quốc.
Tổ 4 Nhóm 1
xin chân thành cảm ơn sự theo dõi củaThầy và các bạn
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Trọng Khải
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)