Bài 23. Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
Chia sẻ bởi trần ánh hà |
Ngày 07/05/2019 |
27
Chia sẻ tài liệu: Bài 23. Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
Nhiệt liệt chào mừng các thầy cô giáo về dự hội thi
PHÒNG GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO
TP NAM ĐỊNH
Người thực hiện: Trần Ánh Hà
NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN ( HOẶC ĐỌAN TRÍCH)
Tiết 118
NGỮ VĂN LỚP 9
* Hệ thống luận điểm triển khai:
Luận điểm 1: Nhân vật anh thanh niên đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.
Luận điểm 2: Anh thanh niên thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
Luận điểm 3: Người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.
Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.(1) Trong lời giới thiệu với ông họa sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. (2) Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo.(3) Công việc hằng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.(4) Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. (5) Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. (6) Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông họa sĩ : “[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? (7) Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia.(8) Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. (9) Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ “[…] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện . (10) Nghĩa là có sách ấy mà!”.(11) Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. (12) Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. (13) Thỉnh thoảng anh xuống đường, tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn.(14)
Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.(1) Trong lời giới thiệu với ông họa sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. (2) Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo.(3) Công việc hằng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.(4) Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. (5) Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. (6) Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông họa sĩ : “[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? (7) Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia.(8) Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. (9) Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ “[…] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện . (10) Nghĩa là có sách ấy mà!”.(11) Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. (12) Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. (13) Thỉnh thoảng anh xuống đường, tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn.(14)
Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.(1) Trong lời giới thiệu với ông họa sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. (2) Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo.(3) Công việc hằng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.(4) Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. (5) Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. (6) Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông họa sĩ : “[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? (7) Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia.(8) Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. (9) Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ “[…] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện . (10) Nghĩa là có sách ấy mà!”.(11) Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. (12) Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. (13) Thỉnh thoảng anh xuống đường, tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn.(14)
Xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách số phận của nhân vật…được người viết phát hiện và khái quát
Trình bày rõ ràng đúng đắn, lập luận thuyết phục
Những nhận xét đánh giá về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích):
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Xác định hệ thống luận cứ, cách triển khai luận điểm, các phép lập luận trong luận điểm 2 và luận điểm 3 của văn bản (SGK trang 61,62,63) theo mẫu sau?
Đoạn 1
Mở bài
Đoạn 2
Đoạn 3
Đoạn 4
Đoạn 5
Thân bài
Kết bài
- Bố cục rõ ràng, mạch lạc.
- Lời văn chuẩn xác, gợi cảm
Bài nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) cần có:
Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
Những nhận xét đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát.
Các nhận xét ,đánh giá về tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích) phải rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục.
Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chuẩn xác, gợi cảm.
Ghi nhớ( SGK-63)
Các đoạn văn sau được viết theo kiểu văn bản nào?
a) Ông Hai là người nông dân ở làng chợ Dầu. Kháng chiến bùng nổ, ông cùng gia đình tản cư đến nơi ở mới. Một lần, từ phòng thông tin bước ra - ông bất ngờ được tin làng mình đã Việt gian theo tây. Ông cảm thấy vô cùng đau đớn, xấu hổ và tủi nhục. Biết được điều này, mụ chủ nhà có ý định đuổi gia đình ông đi nơi khác, khiến tâm trí ông rối bời. Thật bất ngờ - ít hôm sau, ông đã được tin cải chính về làng. Ông vô cùng sung sướng đi khoe cái tin ấy với mọi người, khoe cả chuyện tây đốt nhà mình nữa.
b) Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân được sáng tác năm 1948 – trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Về nghệ thuật, tác phẩm thuộc loại truyện tâm trạng, kết cấu đơn giản, xây dựng được những tình huống kịch độc đáo xúc động, ngôn ngữ rất gần với lời ăn tiếng nói của vùng quê Kinh Bắc, có sự kết hợp hài hòa, khéo léo giữa đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm… Về nội dung, tác phẩm đã khắc họa những chuyển biến mới trong tình cảm yêu làng quê của người nông dân sau cách mạng.
c) Ông Hai rất quan tâm đến tình hình chiến sự. Cái nắng, cái gió với mọi người có thể chỉ là chuyện bình thường nhưng với ông lại không kém phần quan trọng khi ông vừa đi vừa nói: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó…ngồi trong ấy giờ này cũng bằng ngồi tù…” Ông thường đến phòng thông tin để theo dõi tin tức kháng chiến, vui với niềm vui thắng lợi của quân ta. Quan tâm đến tình hình kháng chiến là một biểu hiện của tình yêu nước.
Vấn đề nghị luận của đoạn văn: Tình thế lựa chọn đối với nhân vật Lão Hạc.
+ Các luận cứ:
* Sự lựa chọn giữa cái sống và cái chết.
* Lão Hạc lựa chọn và chuẩn bị cho cái chết của mình.
* Nhận xét đánh giá về sự lựa chọn của Lão Hạc.
+ Cách triển khai: Diễn dịch
=> Bằng sự phân tích cụ thể nội tâm, hành động, bài viết làm sáng tỏ nhân cách đáng kính trọng, tình yêu thương con sâu sắc và tấm lòng hi sinh cao quý của nhân vật Lão Hạc.
Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi chiến trận, nàng thay chồng chăm sóc phụng dưỡng mẹ già. Khi mẹ ốm, nàng thuốc thang chu đáo, lựa lời khéo léo khuyên lơn. Khi mẹ mất, nàng lo ma chay như với cha mẹ đẻ của mình. Thậm chí, khi đã ở chốn làng mây cung nước, nàng vẫn mong trở về để được minh oan... Vũ Nương quả thực là người con dâu hiếu thảo.
Đọc đoạn văn sau và nhận xét về hệ thống luận cứ được sử dụng để làm sáng tỏ luận điểm?
HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ
- Học thuộc lòng Ghi nhớ.
- Chuẩn bị kĩ Tiết 119: Cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện.
Tiết học kết thúc
Xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo cùng các em học sinh
PHÒNG GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO
TP NAM ĐỊNH
Người thực hiện: Trần Ánh Hà
NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN ( HOẶC ĐỌAN TRÍCH)
Tiết 118
NGỮ VĂN LỚP 9
* Hệ thống luận điểm triển khai:
Luận điểm 1: Nhân vật anh thanh niên đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.
Luận điểm 2: Anh thanh niên thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
Luận điểm 3: Người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.
Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.(1) Trong lời giới thiệu với ông họa sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. (2) Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo.(3) Công việc hằng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.(4) Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. (5) Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. (6) Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông họa sĩ : “[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? (7) Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia.(8) Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. (9) Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ “[…] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện . (10) Nghĩa là có sách ấy mà!”.(11) Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. (12) Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. (13) Thỉnh thoảng anh xuống đường, tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn.(14)
Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.(1) Trong lời giới thiệu với ông họa sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. (2) Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo.(3) Công việc hằng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.(4) Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. (5) Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. (6) Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông họa sĩ : “[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? (7) Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia.(8) Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. (9) Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ “[…] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện . (10) Nghĩa là có sách ấy mà!”.(11) Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. (12) Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. (13) Thỉnh thoảng anh xuống đường, tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn.(14)
Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.(1) Trong lời giới thiệu với ông họa sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. (2) Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo.(3) Công việc hằng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.(4) Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. (5) Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. (6) Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông họa sĩ : “[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? (7) Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia.(8) Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. (9) Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ “[…] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện . (10) Nghĩa là có sách ấy mà!”.(11) Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. (12) Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. (13) Thỉnh thoảng anh xuống đường, tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn.(14)
Xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách số phận của nhân vật…được người viết phát hiện và khái quát
Trình bày rõ ràng đúng đắn, lập luận thuyết phục
Những nhận xét đánh giá về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích):
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Xác định hệ thống luận cứ, cách triển khai luận điểm, các phép lập luận trong luận điểm 2 và luận điểm 3 của văn bản (SGK trang 61,62,63) theo mẫu sau?
Đoạn 1
Mở bài
Đoạn 2
Đoạn 3
Đoạn 4
Đoạn 5
Thân bài
Kết bài
- Bố cục rõ ràng, mạch lạc.
- Lời văn chuẩn xác, gợi cảm
Bài nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) cần có:
Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
Những nhận xét đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát.
Các nhận xét ,đánh giá về tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích) phải rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục.
Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chuẩn xác, gợi cảm.
Ghi nhớ( SGK-63)
Các đoạn văn sau được viết theo kiểu văn bản nào?
a) Ông Hai là người nông dân ở làng chợ Dầu. Kháng chiến bùng nổ, ông cùng gia đình tản cư đến nơi ở mới. Một lần, từ phòng thông tin bước ra - ông bất ngờ được tin làng mình đã Việt gian theo tây. Ông cảm thấy vô cùng đau đớn, xấu hổ và tủi nhục. Biết được điều này, mụ chủ nhà có ý định đuổi gia đình ông đi nơi khác, khiến tâm trí ông rối bời. Thật bất ngờ - ít hôm sau, ông đã được tin cải chính về làng. Ông vô cùng sung sướng đi khoe cái tin ấy với mọi người, khoe cả chuyện tây đốt nhà mình nữa.
b) Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân được sáng tác năm 1948 – trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Về nghệ thuật, tác phẩm thuộc loại truyện tâm trạng, kết cấu đơn giản, xây dựng được những tình huống kịch độc đáo xúc động, ngôn ngữ rất gần với lời ăn tiếng nói của vùng quê Kinh Bắc, có sự kết hợp hài hòa, khéo léo giữa đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm… Về nội dung, tác phẩm đã khắc họa những chuyển biến mới trong tình cảm yêu làng quê của người nông dân sau cách mạng.
c) Ông Hai rất quan tâm đến tình hình chiến sự. Cái nắng, cái gió với mọi người có thể chỉ là chuyện bình thường nhưng với ông lại không kém phần quan trọng khi ông vừa đi vừa nói: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó…ngồi trong ấy giờ này cũng bằng ngồi tù…” Ông thường đến phòng thông tin để theo dõi tin tức kháng chiến, vui với niềm vui thắng lợi của quân ta. Quan tâm đến tình hình kháng chiến là một biểu hiện của tình yêu nước.
Vấn đề nghị luận của đoạn văn: Tình thế lựa chọn đối với nhân vật Lão Hạc.
+ Các luận cứ:
* Sự lựa chọn giữa cái sống và cái chết.
* Lão Hạc lựa chọn và chuẩn bị cho cái chết của mình.
* Nhận xét đánh giá về sự lựa chọn của Lão Hạc.
+ Cách triển khai: Diễn dịch
=> Bằng sự phân tích cụ thể nội tâm, hành động, bài viết làm sáng tỏ nhân cách đáng kính trọng, tình yêu thương con sâu sắc và tấm lòng hi sinh cao quý của nhân vật Lão Hạc.
Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi chiến trận, nàng thay chồng chăm sóc phụng dưỡng mẹ già. Khi mẹ ốm, nàng thuốc thang chu đáo, lựa lời khéo léo khuyên lơn. Khi mẹ mất, nàng lo ma chay như với cha mẹ đẻ của mình. Thậm chí, khi đã ở chốn làng mây cung nước, nàng vẫn mong trở về để được minh oan... Vũ Nương quả thực là người con dâu hiếu thảo.
Đọc đoạn văn sau và nhận xét về hệ thống luận cứ được sử dụng để làm sáng tỏ luận điểm?
HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ
- Học thuộc lòng Ghi nhớ.
- Chuẩn bị kĩ Tiết 119: Cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện.
Tiết học kết thúc
Xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo cùng các em học sinh
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: trần ánh hà
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)