Bài 22. Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu)
Chia sẻ bởi Hoàng Công Vượng |
Ngày 03/05/2019 |
30
Chia sẻ tài liệu: Bài 22. Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
Chào Mừng
KỶ NIỆM 1000 NĂM
THĂNG LONG-HÀ NỘI
ON CLICK
CHIẾU DỜI ĐÔ
LÝ CÔNG UẨN
詔
遷
都
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
PHIÊN ÂM
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
DỊCH NGHĨA
Lý Công Uẩn, người khai sáng vương triều Lý (1010-1225), khai sáng Thủ đô Thăng Long - Hà Nội,
Ý NGHĨA
CHIẾU DỜI ĐÔ
遷
都
詔
Chiếu dời đô đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia. Thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thăng Long thực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Nhận xét về kinh đô Thăng Long, sử gia Ngô Sỹ Liên viết:
“Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì chiếu dời đô lại nổi bật những nhược điểm khiến nó không thể trở thành một áng văn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, thể hiện ở các yếu tố sau:
1-Tinh thần dân tộc: là văn bản khai sinh ra một thủ đô Hà Nội nhưng chiếu dời đô không đề cập đến truyền thống đấu tranh dành độc lập dân tộc mà các triều vua Việt Nam trước đó đã gây dựng. Bản chiếu cũng không nêu vai trò của kinh đô Hoa Lư và các kinh đô trước đó như Phong Châu, Mê Linh, Long Biên. Lý Thái Tổ lấy việc làm của các triều đại của cường quyền đế quốc Trung Hoa để noi gương. Ông gọi đô hộ Cao Biền là "Cao Vương", gọi thành Đại La là "đô cũ". Điều này khiến chiếu dời đô chưa toát nên được tinh thần dân tộc chủ đạo mà các áng văn khác như Nam quốc sơn hà ("sông núi nước Nam vua Nam ở") và Bình Ngô Đại Cáo ("từ... Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập") đã có. Chiếu dời đô chỉ có ý nghĩa trong nội bộ quốc gia mà không thể ảnh hưởng ở tầm quốc tế.
2-Khát vọng độc lập: Các nhà nghiên cứu đều cho rằng việc lập đô của các nhà Đinh và nhà Tiền Lê không phải là tự theo ý riêng, thiển cận. Trong bối cảnh vừa thoát khỏi thời Bắc thuộc, chính quyền còn non trẻ, kinh đô Cổ Loa không còn trấn áp được loạn cát cứ thì việc lập đô ở Hoa Lư trở lên lợi hại hơn cả. Người Việt đã xây dựng kinh đô Hoa Lư của riêng mình mà không theo một hình mẫu nào của Trung Hoa. Sự xuất hiện của chiếu dời đô là bằng chứng cho thấy đất nước đã phát triển sang trang mới, vua Lý Thái Tổ không tự khởi nghiệp ở Thăng Long mà là người được triều đình Hoa Lư tiến cử lên ngôi thay nhà Tiền Lê. Vì thế mà hệ thống triều đình và cơ sở vật chất của kinh thành Thăng Long có được đều thừa hưởng từ đô cũ Hoa Lư. Sự kiện ban Chiếu dời đô vừa khẳng định vừa phủ định vai trò của kinh đô Hoa Lư. Là mốc son đánh dấu lịch sử hình thành thủ đô Hà Nội của Việt Nam trên cơ sở, nền tảng kinh đô Hoa Lư.
3-Màu sắc dị đoan, phong thuỷ: Chiếu dời đô được viết với nội dung mang đượm màu sắc đầy dị đoan, phong thuỷ. Sự phát triển của một thủ đô so với các vùng đất khác hoàn toàn không bị ảnh hưởng nhiều vào yếu tố phong thuỷ. Roma nằm trên 7 quả đồi xa xôi khó đi lại, Seoul núi non bao bọc, lẻ loi ít khoáng sản, thời tiết khắc nghiệt, Singapore nhỏ nhoi thiếu nước, Bern núi non hiểm trở, Tokyo tủn mủn, rời rạc, chia cắt, Ottawa nằm giữa thung lũng ẩm ướt, sông ngòi dày đặc được bao bọc bởi rừng rậm và đầm lầy, Amsterdam chỉ xuất xứ từ một đập làng chài trong sông Amstel đều là các vùng không thuận lợi cho việc phát triển kinh tế mà vẫn đứng đầu quốc gia. Đánh giá thế nào là thuận lợi cho việc phòng thủ và phát triển kinh tế là trình độ và khả năng của nhà cầm quyền đương thời. Lý Thái Tổ ám chỉ các triều vua nhà Đinh, nhà Tiền Lê tự theo ý riêng mình mà vận mệnh ngắn ngủi trong khi chính ông là người thừa hưởng nền tảng độc lập mà các triều đại này để lại. Quan điểm này không phù hợp với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt. Thực tế rất nhiều anh hùng đã hy sinh như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Quang Trung... mà triều đại do họ gây dựng tồn tại rất ngắn nhưng lịch sử luôn đánh giá công bằng. Bản chiếu dời đô cũng không thấy sự xuất hiện của vị vua Việt Nam nào được vua Lý nêu tới.
Chính vì tính không hoàn hảo của chiếu dời đô, tính chất đặc biệt của sự kiện lịch sử mà chiếu dời đô trở thành văn bản được nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Nó vừa khẳng định, vừa phủ định, vừa khách quan vừa cảm tính. Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình)
CHIẾU DỜI ĐÔ
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
遷
都
詔
Hơn 1 năm sau khi lên ngôi Hoàng đế, tháng 7 năm Canh Tuất, Lý Thái Tổ bắt đầu dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo đường bộ hoặc theo đường thuỷ. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: nhà Lý dời đô bằng đường thuỷ. Và chỉ có dời đô bằng đường thuỷ thì mới an toàn và tải được cả bộ máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm.
Cố đô Hoa Lư
Năm Thái Bình thứ 7 (976) dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng đã có việc buôn bán với nước ngoài bằng thuyền. Các nhà nghiên cứu khẳng định Lý Công Uẩn dời đô cũng cần đưa đội thuyền đi theo. Đoàn thuyền xuất phát từ bến Ghềnh Tháp (nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô Hoa Lư). Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên vào sông Hoàng Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy. Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang. Đến Phủ Lý đoàn thuyền ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.
CHIẾU DỜI ĐÔ
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
1-Xuất phát từ bến Ghềnh Tháp
Ghềnh Tháp nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô Hoa Lư.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
2-Vào sông Sào Khê
Sông Sào Khê là con sông chảy qua khu di tích cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là một con sông được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
3-Qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên
Bến đò Trường Yên,huyện Gia Viễn, Ninh Bình . Bến đò này có tương truyền rằng:vua Đinh Tiên Hoàng bị chú đuổi qua sông có rồng nổi lên đón.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
4-Vào sông Hoàng Long
Sông Hoàng Long (tên cũ là Đại Hoàng)là một chi lưu của sông Đáy, nhập vào sông Đáy tại ngã ba Gián Khẩu.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
5-Đi tiếp đến Gián Khẩu
Sông Đáy chảy qua Ninh Bình về ngã ba Gián Khẩu, cách thành phố Ninh Bình khoảng 10 km về phía Bắc. Đoạn này sông được gọi sông Gián Khẩu.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
6-Từ Gián Khẩu rẽ vào sông Đáy
Sông Đáy là một con sông ở miền Bắc,rút nước từ sông Hồng ra vịnh Bắc Bộ. Sông Đáy chảy gọn trong vùng đồng bằng Bắc Bộ với dòng sông chảy song song bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
7-Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang.
Sông Phủ Lý (còn có tên gọi là sông Châu Giang) là một con sông thuộc hệ thống sông Hồng, sông chảy qua địa phận tỉnh Hà Nam
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
8-Đến Phủ Lý đoàn thuyền ngược sông Hồng
Phủ Lý là thành phố trực thuộc tỉnh, tỉnh lỵ của tỉnh Hà Nam. Đây là trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế và là đô thị loại 3 duy nhất của tỉnh Hà Nam.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
9-Rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.
Sông Tô Lịch chảy trong địa phận Hà Nội. Dòng chính sông Tô Lịch khi chảy qua các quận huyện: Thanh Xuân, Hoàng Mai và Thanh Trì còn được gọi là Kim Giang
Năm 866, viên Tiết độ sứ Cao Biền đã cho đắp rộng An Nam La Thành, gọi là thành Đại La. Thành Đại La theo ghi chép của sách Việt sử lược có chu vi gần 2000 trượng, tương đương trên 6000m; cao 2,5 trượng, tương đương 8m, chân thành cũng rộng như vậy.
Như vậy hành trình dời đô đi qua 6 con sông khác nhau, trong đó các hành trình trên sông Sào Khê, sông Hoàng Long, sông Châu Giang là đi xuôi dòng, trên sông Đáy, sông Hồng, sông Tô Lịch là đi ngược dòng. Sở dĩ nhà Lý đi bằng đường sông chứ không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an toàn vì thuyền phải tải nặng không chịu nổi sóng dữ ở biển.
Sơ đồ thành Đại La
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
Xin chân thành cám ơn bạn đã sử dụng tài liệu này.
KỶ NIỆM 1000 NĂM
THĂNG LONG-HÀ NỘI
ON CLICK
CHIẾU DỜI ĐÔ
LÝ CÔNG UẨN
詔
遷
都
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
PHIÊN ÂM
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
DỊCH NGHĨA
Lý Công Uẩn, người khai sáng vương triều Lý (1010-1225), khai sáng Thủ đô Thăng Long - Hà Nội,
Ý NGHĨA
CHIẾU DỜI ĐÔ
遷
都
詔
Chiếu dời đô đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia. Thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thăng Long thực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Nhận xét về kinh đô Thăng Long, sử gia Ngô Sỹ Liên viết:
“Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì chiếu dời đô lại nổi bật những nhược điểm khiến nó không thể trở thành một áng văn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, thể hiện ở các yếu tố sau:
1-Tinh thần dân tộc: là văn bản khai sinh ra một thủ đô Hà Nội nhưng chiếu dời đô không đề cập đến truyền thống đấu tranh dành độc lập dân tộc mà các triều vua Việt Nam trước đó đã gây dựng. Bản chiếu cũng không nêu vai trò của kinh đô Hoa Lư và các kinh đô trước đó như Phong Châu, Mê Linh, Long Biên. Lý Thái Tổ lấy việc làm của các triều đại của cường quyền đế quốc Trung Hoa để noi gương. Ông gọi đô hộ Cao Biền là "Cao Vương", gọi thành Đại La là "đô cũ". Điều này khiến chiếu dời đô chưa toát nên được tinh thần dân tộc chủ đạo mà các áng văn khác như Nam quốc sơn hà ("sông núi nước Nam vua Nam ở") và Bình Ngô Đại Cáo ("từ... Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập") đã có. Chiếu dời đô chỉ có ý nghĩa trong nội bộ quốc gia mà không thể ảnh hưởng ở tầm quốc tế.
2-Khát vọng độc lập: Các nhà nghiên cứu đều cho rằng việc lập đô của các nhà Đinh và nhà Tiền Lê không phải là tự theo ý riêng, thiển cận. Trong bối cảnh vừa thoát khỏi thời Bắc thuộc, chính quyền còn non trẻ, kinh đô Cổ Loa không còn trấn áp được loạn cát cứ thì việc lập đô ở Hoa Lư trở lên lợi hại hơn cả. Người Việt đã xây dựng kinh đô Hoa Lư của riêng mình mà không theo một hình mẫu nào của Trung Hoa. Sự xuất hiện của chiếu dời đô là bằng chứng cho thấy đất nước đã phát triển sang trang mới, vua Lý Thái Tổ không tự khởi nghiệp ở Thăng Long mà là người được triều đình Hoa Lư tiến cử lên ngôi thay nhà Tiền Lê. Vì thế mà hệ thống triều đình và cơ sở vật chất của kinh thành Thăng Long có được đều thừa hưởng từ đô cũ Hoa Lư. Sự kiện ban Chiếu dời đô vừa khẳng định vừa phủ định vai trò của kinh đô Hoa Lư. Là mốc son đánh dấu lịch sử hình thành thủ đô Hà Nội của Việt Nam trên cơ sở, nền tảng kinh đô Hoa Lư.
3-Màu sắc dị đoan, phong thuỷ: Chiếu dời đô được viết với nội dung mang đượm màu sắc đầy dị đoan, phong thuỷ. Sự phát triển của một thủ đô so với các vùng đất khác hoàn toàn không bị ảnh hưởng nhiều vào yếu tố phong thuỷ. Roma nằm trên 7 quả đồi xa xôi khó đi lại, Seoul núi non bao bọc, lẻ loi ít khoáng sản, thời tiết khắc nghiệt, Singapore nhỏ nhoi thiếu nước, Bern núi non hiểm trở, Tokyo tủn mủn, rời rạc, chia cắt, Ottawa nằm giữa thung lũng ẩm ướt, sông ngòi dày đặc được bao bọc bởi rừng rậm và đầm lầy, Amsterdam chỉ xuất xứ từ một đập làng chài trong sông Amstel đều là các vùng không thuận lợi cho việc phát triển kinh tế mà vẫn đứng đầu quốc gia. Đánh giá thế nào là thuận lợi cho việc phòng thủ và phát triển kinh tế là trình độ và khả năng của nhà cầm quyền đương thời. Lý Thái Tổ ám chỉ các triều vua nhà Đinh, nhà Tiền Lê tự theo ý riêng mình mà vận mệnh ngắn ngủi trong khi chính ông là người thừa hưởng nền tảng độc lập mà các triều đại này để lại. Quan điểm này không phù hợp với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt. Thực tế rất nhiều anh hùng đã hy sinh như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Quang Trung... mà triều đại do họ gây dựng tồn tại rất ngắn nhưng lịch sử luôn đánh giá công bằng. Bản chiếu dời đô cũng không thấy sự xuất hiện của vị vua Việt Nam nào được vua Lý nêu tới.
Chính vì tính không hoàn hảo của chiếu dời đô, tính chất đặc biệt của sự kiện lịch sử mà chiếu dời đô trở thành văn bản được nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Nó vừa khẳng định, vừa phủ định, vừa khách quan vừa cảm tính. Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình)
CHIẾU DỜI ĐÔ
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
遷
都
詔
Hơn 1 năm sau khi lên ngôi Hoàng đế, tháng 7 năm Canh Tuất, Lý Thái Tổ bắt đầu dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo đường bộ hoặc theo đường thuỷ. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: nhà Lý dời đô bằng đường thuỷ. Và chỉ có dời đô bằng đường thuỷ thì mới an toàn và tải được cả bộ máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm.
Cố đô Hoa Lư
Năm Thái Bình thứ 7 (976) dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng đã có việc buôn bán với nước ngoài bằng thuyền. Các nhà nghiên cứu khẳng định Lý Công Uẩn dời đô cũng cần đưa đội thuyền đi theo. Đoàn thuyền xuất phát từ bến Ghềnh Tháp (nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô Hoa Lư). Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên vào sông Hoàng Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy. Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang. Đến Phủ Lý đoàn thuyền ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.
CHIẾU DỜI ĐÔ
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
1-Xuất phát từ bến Ghềnh Tháp
Ghềnh Tháp nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô Hoa Lư.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
2-Vào sông Sào Khê
Sông Sào Khê là con sông chảy qua khu di tích cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là một con sông được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
3-Qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên
Bến đò Trường Yên,huyện Gia Viễn, Ninh Bình . Bến đò này có tương truyền rằng:vua Đinh Tiên Hoàng bị chú đuổi qua sông có rồng nổi lên đón.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
4-Vào sông Hoàng Long
Sông Hoàng Long (tên cũ là Đại Hoàng)là một chi lưu của sông Đáy, nhập vào sông Đáy tại ngã ba Gián Khẩu.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
5-Đi tiếp đến Gián Khẩu
Sông Đáy chảy qua Ninh Bình về ngã ba Gián Khẩu, cách thành phố Ninh Bình khoảng 10 km về phía Bắc. Đoạn này sông được gọi sông Gián Khẩu.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
6-Từ Gián Khẩu rẽ vào sông Đáy
Sông Đáy là một con sông ở miền Bắc,rút nước từ sông Hồng ra vịnh Bắc Bộ. Sông Đáy chảy gọn trong vùng đồng bằng Bắc Bộ với dòng sông chảy song song bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
7-Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang.
Sông Phủ Lý (còn có tên gọi là sông Châu Giang) là một con sông thuộc hệ thống sông Hồng, sông chảy qua địa phận tỉnh Hà Nam
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
8-Đến Phủ Lý đoàn thuyền ngược sông Hồng
Phủ Lý là thành phố trực thuộc tỉnh, tỉnh lỵ của tỉnh Hà Nam. Đây là trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế và là đô thị loại 3 duy nhất của tỉnh Hà Nam.
HÀNH TRÌNH DỜI ĐÔ
9-Rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.
Sông Tô Lịch chảy trong địa phận Hà Nội. Dòng chính sông Tô Lịch khi chảy qua các quận huyện: Thanh Xuân, Hoàng Mai và Thanh Trì còn được gọi là Kim Giang
Năm 866, viên Tiết độ sứ Cao Biền đã cho đắp rộng An Nam La Thành, gọi là thành Đại La. Thành Đại La theo ghi chép của sách Việt sử lược có chu vi gần 2000 trượng, tương đương trên 6000m; cao 2,5 trượng, tương đương 8m, chân thành cũng rộng như vậy.
Như vậy hành trình dời đô đi qua 6 con sông khác nhau, trong đó các hành trình trên sông Sào Khê, sông Hoàng Long, sông Châu Giang là đi xuôi dòng, trên sông Đáy, sông Hồng, sông Tô Lịch là đi ngược dòng. Sở dĩ nhà Lý đi bằng đường sông chứ không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an toàn vì thuyền phải tải nặng không chịu nổi sóng dữ ở biển.
Sơ đồ thành Đại La
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
CỐ ĐÔ HOA LƯ
Xin chân thành cám ơn bạn đã sử dụng tài liệu này.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Công Vượng
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)