Bài 20. Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh

Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Thu Hà | Ngày 02/05/2019 | 32

Chia sẻ tài liệu: Bài 20. Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh thuộc Ngữ văn 8

Nội dung tài liệu:

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CÁT LINH
TẬP THỂ LỚP 8A3
Trò chơi ô chữ
2
1
3
4
5
Đây là một vị vua đã từng đánh đuổi giặc Minh ở Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá?
Đây là một công trình kiến trúc được xây dựng từ năm 1865, bao gồm năm tầng. Trên đỉnh là tượng trưng cho một ngòi bút đối lên trời, phần thân có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên
Đây là một công trình kiến trúc là di vật còn sót lại của chùa Báo Ân (bị dỡ bỏ năm 1898). Tháp cao ba tầng, cửa theo bốn hướng Đông Tây Nam Bắc, có các chữ Hán như: Báo Đức môn, Báo Ân môn, Hoà Phong tháp, Báo Thiên tháp, ứng với mỗi cửa của tháp. Tầng một to và cao hơn hai tầng trên cùng. Bốn mặt của tầng hai hình Bát quái.
Đây là cây cầu do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1865.Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm"
Đây là loài đông vật có tuổi thọ lâu nhất thế giới.
Đây là vị vua có công lớn nhất trong việc dời đô từ kinh đô Hoa Lư ra Hà Nội
6

Danh lam thắng cảnh Hồ Hoàn Kiếm
Tổ 2
1.Trần Thủy Tiên
2.Nguyễn Vũ Tuấn
3.Mai Gia D?t

A.Tìm hiểu về Hồ Hoàn Kiếm
Hồ Hoàn Kiếm
Hồ Hoàn Kiếm còn gọi là Hồ Gươm.
Là một hồ nước ngọt tự nhiên nằm giữa Thủ đô Hà Nội. Hồ Hoàn Kiếm có diện tích khoảng 12 Ha, chiều dài Nam-Bắc là 700m, chiều rộng Đông-Tây là 200m. Bao quanh hồ là các phố Lê Thái Tổ ở phía Tây, phố Đinh Tiên Hoàng phía Đông, phố Hàng Khay phía Nam. Trước kia hồ có các tên gọi như: hồ Lục Thủy, hồ Thủy Quân, hồ Tả Vọng và hồ Hữu Vọng( thời Lê Mạt). Tên hồ được đặt cho một quận của Hà Nội, là quận Hoàn Kiếm. Đây là hồ nước duy nhất nằm ở trung tâm của thủ đô Hà Nội.
Vị trí

Là vị trí kết nối giữa khu phố cổ như Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ, Lương Văn Can, Lò Sũ... với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch thực hiện cách đây hơn một thế kỷ là Bảo Khánh, Nhà Thờ, Tràng Thi, Hàng Bài, Đinh Tiên Hoàng, Tràng Tiền, Hàng Khay, Bà Triệu...
Lịch sử
Thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 16), chúa Trịnh cho chỉnh trang Hoàng thành Thăng Long để vua Lê ở, đã đồng thời xây dựng phủ chúa riêng bên ngoài Hoàng thành và trở thành cơ quan trung ương thời bấy giờ với những công trình kiến trúc xa hoa như lầu Ngũ Long (dùng để duyệt quân) nằm ở bờ Đông hồ Hoàn Kiếm, đình Tả Vọng trên đảo Ngọc Sơn. Năm 1728, Trịnh Giang cho đào hầm ở vị trí phía Nam hồ để xây dựng cung điện ngầm là Thưởng Trì cung.
Do đó hồ được đặt tên là Hoàn Kiếm.
Cách đây 6 thế kỷ, theo bản đồ thời Hồng Đức phần lớn xung quanh kinh thành khi ấy là nước, hồ Hoàn Kiếm là một phân lưu sông Hồng chảy qua các phố ngày nay như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hàng Chuối, rồi lại đổ ra nhánh chính của sông Hồng. Nơi rộng nhất phân lưu này là hồ Hoàn Kiếm hiện nay.
Chúa Trịnh cho ngăn hồ lớn thành hồ Tả Vọng và hồ Hữu Vọng, hồ Hữu Vọng được dùng làm nơi để duyệt quân thuỷ chiến của triều đình. Đến đời Tự Đức (1847-1883), hồ Hữu Vọng có tên là hồ Thủy Quân, còn hồ Tả Vọng chính là hồ Hoàn Kiếm. Từ năm 1884, nhà nước bảo hộ Pháp cho lấp hồ Thuỷ Quân để xây dựng, mở mang Hà Nội.
Hồ được đổi thành tên Hoàn Kiếm vào thế kỷ 15. Gắn liền với truyền thuyết Rùa thần đòi gươm. Ghi lại một dấu ấn thắng lợi trong cuộc chiến tranh dân tộc chống quân Minh (1417-1427) do Lê Lợi lãnh đạo.
Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp.
Và hơn thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khát khao hòa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc (thanh kiếm thiêng nơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh). Do vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền tảng cho các tác phẩm của mình.


Nhà thơ Hy Lạp Ludemit đã ví: "Hồ Gươm là lẵng hoa xinh đẹp giữa lòng thành phố" .
Lê Lợi trả kiếm cho Rùa thần
Rùa hồ Gươm có họ Ba Ba (Trionychidae) trong bộ Rùa (Testudies), Rùa hồ Gươm gồm có bốn cá thể, trong đó một cá thể còn sống trong hồ và ba cá thể đã chết (một được lưu trong đền Ngọc Sơn, một lưu trong kho của Bảo tàng Hà Nội và một đã bị giết thịt năm 1962 - 1963 khi bò lên vườn hoa Chí Linh).
Là loài rùa lớn sinh sống trong Hồ Gươm. Ngày trước rùa Hồ Gươm rất hiếm khi nổi lên mặt nước. Truyền rằng mỗi lần rùa nổi đều liên quan đến những việc quốc gia đại sự.
Là di sản vô giá gắn với những truyền thuyết lịch sử và văn hoá linh thiêng từ hàng ngàn năm nay, hiện rùa hồ Gươm thuộc diện động vật quý hiếm đang được nhà nước bảo vệ.
B. Thắng cảnh ở Hồ Hòan Kiếm
Nằm ở trung tâm hồ, được xây dựng trong khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886, trên gò Rùa và chịu ảnh hưởng kiến trúc Pháp. Tháp hình chữ nhật. Tầng một: chiều dài 6,28 mét (của 2 mặt hướng Đông và Tây), mỗi mặt có 3 cửa. Chiều rộng 4,54 mét, mỗi mặt có 2 cửa. Các cửa đều được xây cuốn, đỉnh thuôn nhọn. Tầng hai: chiều dài 4,8 mét, rộng 3,64 mét và có kiến trúc giống như tầng một. Tầng ba: chiều dài 2,97 mét, rộng 1,9 mét. Tầng này chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía Đông, đường kính 0,68 mét, phía trên cửa có 3 chữ Quy Sơn tháp (tháp Núi Rùa). Tầng đỉnh có nét giống một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét.
1.Tháp Rùa
Tháp xây trên gò rùa nơi xưa vua Lê Thánh Tông đã dựng Điếu Đài để nhà vua ra câu cá. Sang thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh cho xây đình Tả Vọng trên gò nhưng sang thời nhà Nguyễn thì không còn dấu tích gì nữa.
Sau khi Pháp hạ Thành Hà Nội năm 1883 thì dân vùng ven hồ xiêu tán cả. Các quan Việt cũng bỏ sở nhiệm. Riêng Nguyễn Ngọc Kim-chức dịch làng Tự Tháp-được cử làm trung gian giữa quân Pháp và người Việt, lại được chính quyền mới tín nhiệm nên ít lâu trở thành Bá hộ Kim.
Năm 1886 thấy huyệt đất trên gò Rùa hợp phong thủy ông xuất tiền xây tháp trên gò với ý định chôn hài cốt của cha vào đó. Việc không thành nhưng ngọn tháp ba tầng vẫn được hoàn tất. Vì vậy nên ban đầu Tháp có tên là Tháp Bá hộ Kim. Vì vị trí đẹp giữa hồ, tháp trở thành thắng tích Hà Nội.
Tháp Hoà Phong: trên bờ hướng Đông hồ, là di vật còn sót lại của chùa Báo Ân (bị dỡ bỏ năm 1898). Tháp cao ba tầng, cửa theo bốn hướng Đông Tây Nam Bắc, có các chữ Hán như: Báo Đức môn, Báo Ân môn, Hoà Phong tháp, Báo Thiên tháp, ứng với mỗi cửa của tháp. Tầng một to và cao hơn hai tầng trên cùng. Bốn mặt của tầng hai hình Bát quái. Tầng ba ghi "Hòa Phong Tháp".
2.Tháp Hòa Phong
Đây là một quần thể di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng ở trung tâm thành phố. Ngôi đền được dựng trên đảo Ngọc các thần Nho giáo, Đạo giáo và vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Di tích Ngọc Sơn có từ xa xưa, tới năm 1865 được mở rộng quy mô, xây thêm nhiều công trình như chúng ta thấy ngày nay: tháp Bút, đài Nghiên cầu Thê Húc (đậu nắng mai), lầu Đắc Nguyệt (lầu được trăng), đình Trấn Ba (chắn sóng)…mỗi công trình mang một ý nghĩa đặc sắc.
Cùng với Hồ Gươm, quần thể di tích Ngọc Sơn đã trở thành thắng cảnh mỹ lệ, giàu tính lịch sử của Hà Nội.
Đền Ngọc Sơn là một ngôi đền nằm trên đảo Ngọc của Hồ Hoàn Kiếm. Cổng đền có hai trụ hoa biểu, tả hữu là hai chữ “phúc” và “lộc” lớn màu son.
Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ XIX. Lúc đầu gọi là chùa Ngọc Sơn sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công phá quân Nguyên thế kỷ XIII.
Khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ.
3.ĐỀN NGỌC SƠN
Tam quan Đền Ngọc
Đảo Ngọc Sơn: nằm ở phía Bắc hồ, xưa có tên là Tượng Nhĩ (tai voi). Vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng khi dời đô ra Thăng Long và đến đời Trần thì đảo được đổi tên là Ngọc Sơn. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra đền Ngọc Sơn trên nền cung Thuỵ Khánh cũ (bị Lê Chiêu Thống cho người đốt năm 1787 để trả thù các chúa Trịnh). Đền Ngọc Sơn thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo
Về kiến trúc, đền Ngọc Sơn là một dãy nhà hình chữ Tam gồm tòa tiền bái, tòa chính điện và hậu cung. Tòa tiền bái thờ Quan Công, tòa chính điện thờ Văn Xương đế quân và tòa hậu cung thờ Trần Hưng Đạo. Ngoài ra trong đền còn thờ Phật A Di Đà. Điều này đã thể hiện rõ quan niệm tam giáo đồng nguyên của người Việt xưa.
4.THÁP BÚT
Nằm trên bờ hướng Đông Bắc hồ, là một ngọn tháp bằng đá, được xây dựng từ năm Tự Đức thứ 18 (1865) trên nền núi Độc Tôn cũ theo ý tưởng của nhà nho Nguyễn Văn Siêu, nằm ở phía ngoài lối vào cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn. Tháp dựng trên ngọn núi do đá xếp, đường kính 12m, cao 4m. Tháp vuông có năm tầng, cao 28m. Đỉnh là một ngòi bút lông dựng ngược. Cả cán và ngòi bút cao 0,9m.Trên đỉnh là tượng trưng cho một ngòi bút đối lên trời, phần thân có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên thân tầng thứ 3 của tháp có khắc một bài Bút Tháp Chí.
Đài Nghiên: Ở đầu cầu Thê Húc là Đài Nghiên, được xây dựng từ năm 1865, là phần không thể thiếu của Tháp bút, nghiên được đặt trên tòa cửa đầu tiên dẫn vào đền, là một nghiên mực bằng đá xanh đẽo tạc theo hình nửa quả đào, cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm. Bề dài quả đào 0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu vi 2m, có ba con thiềm thừ (con cóc) đội nghiên như ba cái chân kiềng. Trên thân của nghiên có khắc một bài minh mà tác giả là Nguyễn Văn Siêu. Chỉ có 64 chữ (Hán) nhưng ý tứ rất hàm súc, tạm dịch:
"Xưa lấy hốc đất làm nghiên (chú giải Đạo Đức kinh)
Nghiền ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu.
Từ đá tách ra làm nghiên, chẳng có hình dáng.
Không vuông không tròn, dùng vào mọi việc thật kỳ diệu.
Không cao không thấp, ngôi ở chính giữa.
Cúi soi hồ Hoàn Kiếm, ngửa trông ngọn Bút đá.
Ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi.
Ngậm nguyên khí mà mài hư không".
5.CẦU THÊ HÚC
Cầu Thê Húc: Năm Tự Đức thứ 18 (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm"
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Thị Thu Hà
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)