Bài 18. Phép phân tích và tổng hợp
Chia sẻ bởi Hoàng Mai Trang |
Ngày 07/05/2019 |
33
Chia sẻ tài liệu: Bài 18. Phép phân tích và tổng hợp thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
CHÀO MỪNG
các thầy cô giáo về dự giờ
MÔN: NGỮ VĂN 9
Giáo viên thực hiện: NGUYỄN THỊ MAI
VĂN NGHỊ LUẬN
Phép
lập luận giải thích
Phép
lập luận chứng minh
Phép
phân tích và tổng hợp
VĂN BẢN TRANG PHỤC
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,…phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người.
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp … Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay!
Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.
(Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường)
VĂN BẢN TRANG PHỤC
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,…phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người.
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp … Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay!
Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.
(Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường)
-Kiểu văn bản: Nghị luận.
- Vấn đề nghị luận: Trang phục có văn hoá phù hợp với đạo đức, môi trường.
VĂN BẢN TRANG PHỤC
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,…phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người.
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp … Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay!
Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.
(Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường)
MỞ BÀI (Đoạn 1)
THÂN BÀI (Đoạn 2,3)
KẾT BÀI (Đoạn 4)
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,...phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc áo quần chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt trước mặt mọi người.
Đoạn văn 1: Mở bài
VĂN BẢN: TRANG PHỤC
VĂN BẢN TRANG PHỤC
* Đoạn văn 2,3: Thân bài
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp … Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay
VĂN BẢN TRANG PHỤC
* Đoạn văn 2,3: Thân bài
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp … Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay !
NHÓM 1: Đoạn văn 2
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp … Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.
Muốn làm sáng tỏ luận điểm chính ở đoạn 2, tác giả đưa ra lí lẽ, dẫn chứng gì và lập luận ra sao?
HOẠT ĐỘNG NHÓM
HOẠT ĐỘNG NHÓM
NHÓM 2: Đoạn văn 3
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng
phải phù hợp với hoàncảnh riêng của mình và hoàn cảnhchung
nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu,sang đến
đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ,
làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi
Với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn
hoá, biết ứng xử chính là người biết tựhoà mình vào cộng đồng
như thế, không kểhình thức còn phải đi vớinội dung, tức là con
người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu
có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có
bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”.
Chí lí thay !
Muốn làm sáng tỏ luận điểm chính của đoạn 3, tác giả đã đưa ra lí lẽ, dẫn chứng gì và lập luận ra sao?
NHÓM 1: Đoạn văn 2
Luận điểm:
Ăn cho
mình,
mặc cho
người
Dẫn chứng:
- Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay.
Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp.
Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn.
- Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.
Lí lẽ
-Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội.
Phép lập luận chứng minh + từ phủ định, giả thiết.
NHÓM 2: Đoạn văn 3:
Luận
điểm:
Y phục
xứng
kì
đức
Lí lẽ
Dẫn chứng
Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với
hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh
chung nơi công cộng hay toàn xã hội.
Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà
không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười
cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi.
Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái
giản dị, nhất là phù hợp với môi trường.
Người có văn hoá, biết ứng xử chính là
người biết tự hoà mình vào cộng đồng
Như thế, không kể hình thức còn phải đi
Với nội dung tức là con người phải có trình
độ, có hiểu biết.
Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi
chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi
có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì
đáng hãnh diện”.
Lí lẽ
Lí lẽ
Phép lập luận giải thích + so sánh, đối chiếu
Phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ
phận,phương diện của một vấn đề để nhằm chỉ
ra nội dung của sự vật, hiện tượng.
Để phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng,
người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu
giả thiết, so sánh, đối chiếu, … và cả phép lập
luận giải thích,chứng minh.
VĂN BẢN TRANG PHỤC
Đoạn 4 : Kết bài
Thế mới biết, trang phục hợp văn hóa, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.
Khái quát, chốt lại vấn đề, rút ra cái chung từ những điều phân tích trên.
- Vị trí: Cuối đoạn văn, cuối một phần văn bản, cuối văn bản.
Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích.
Không có phân tích thì không có tổng hợp.
Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn bản.
Ghi nhớ
Để làm rõ ý nghĩa của một sự vật, hiện tượng nào đó, người ta thường dùng phép phân tích và tổng hợp.
Phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận, phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. Để phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh, đối chiếu, … và phép lập lụân giải thích, chứng minh.
Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn bản.
BÀI TẬP 1
Chu Quang Tiềm đã phân tích như thế nào để làm sáng tỏ luận điểm: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn”?
Đoạn văn: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn. Bởi vì học vấn không chỉ là việc cá nhân, mà là việc của toàn nhân loại. Mỗi loại học vấn đến giai đoạn hôm nay đều là thành quả của toàn nhân loại nhờ biết phân công, cố gắng tích luỹ ngày đêm mà có. Các thành quả đó sở dĩ không bị vùi lấp đi, đều là do sách vở ghi chép, lưu truyền lại. Sách là kho tàng quý báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại, cũng có thể nói đó là những cột mốc trên con đường tiến hoá học thuật của nhân loại. Nếu chúng ta mong tiến lên từ văn hoá, học thuật của giai đoạn này, thì nhất định phải lấy thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ làm điểm xuất phát. Nếu xoá bỏ hết các thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ, thì chưa biết chừng chúng ta đã lùi điểm xuất phát về đến mấy trăm năm, thậm chí là mấy nghìn năm trước. Lúc đó, dù có tiến lên cũng chỉ là đi giật lùi, làm kẻ lạc hậu.”
* Các luận cứ:
Học vấn là của nhân loại.
Học vấn của nhân loại là do sách lưu truyền lại.
Sách là kho tàng quý báu tích luỹ mọi thành tựu mà loài người đã tìm được qua từng thời đại.
Nếu chúng ta mong muốn tiến lên từ văn hoá thì phải lấy thành quả đã đạt được trong quá khứ làm điểm xuất phát.
Nếu chúng ta xoá bỏ hết các thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ thì chúng ta đã lùi điểm xuất phát đến mấy nghìn năm.
* Luận điểm:
Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn.
Tác giả nêu ra luận điểm cơ bản làm tiền đề cho lập luận
dùng giả thiết để phân tích làm sáng rõ cho luận điểm.
Lí do phải chọn sách để đọc
Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu, đọc sách theo kiểu liếc qua, tuy rất nhiều nhưng đọng lại thì rất ít. Từ đó nảy sinh thói hư danh, nông cạn.
Sách nhiều dễ khiến người đọc lạc hướng. Đọc tham nhiều mà không vụ thực chất thì sẽ lãng phí thời gian và sức lực bởi những cuốn sách vô bổ, bỏ lỡ những cuốn sách quan trọng, cơ bản.
Bài tập 2:
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Từ những lí do phải chọn sách trên, em hãy viết phần tổng hợp cho vấn đề đã nêu?
So sánh sự giống và khác nhau giữa phép phân tích và phép tổng hợp:
Mục đích: giúp người đọc, người nghe nhận thức đúng, hiểu đúng, đủ vấn đề.
Trình bày từng bộ phận, phương diện của vấn đề để chỉ ra nội dung của sự việc, hiện tượng.
Khái quát rút ra cái chung từ những điều phân tích.
Giúp ta hiểu vấn đề cụ thể, chi tiết qua nhiều khía cạnh, nhiều góc độ, nhiều bình diện khác nhau. Từ đó, thấy được nội dung, ý nghĩa của vấn đề.
Giúp ta khái quát, nâng cao vấn đề.
Hướng dẫn học ở nhà
- Học bài.
- Làm các bài tập 3.
1. Học bài:
2. Soạn bài:
- Chuẩn bị bài: Luyện tập phép phân tích và tổng hợp.
CHÚC CÁC THẦY CÔ GIÁO VÀ CÁC EM
MẠNH KHOẺ, HẠNH PHÚC
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Mai Trang
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)