Bài 18. Ông đồ
Chia sẻ bởi Kim Lan |
Ngày 03/05/2019 |
70
Chia sẻ tài liệu: Bài 18. Ông đồ thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
- Từ đầu thế kỉ XX, nền Hán hoc và chữ Nho ngày càng mất vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa Việt Nam.
- Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, sống thanh bần bằng nghề dạy học. Theo phong tục, khi tết đến, người ta sắm câu đối hoặc một đôi chữ Nho viết trên giấy đỏ dán lên vách, lên cột để năm mới tốt lành. Ông đồ rất được mọi người trọng vọng. Khi chế độ thi cử chữ Hán bị bãi bỏ, ông đồ hết thời, bị gạt ra ngoài lề cuộc sống mới. Lớp người xưa đã vắng bóng trong cuộc đời nhộn nhịp, để lại nỗi tiếc thương, ngậm ngùi.
I, Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu
thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ
không nhiều nhưng chỉ với bài Ông đồ, Vũ Đình
Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào
Thơ mới.
II, Đọc hiểu văn bản.
Em hãy cho biết nội dung chính của
mỗi phần?
Mỗi độ xuân về, tết đến, ông đồ xuất hiện bên
hè phố, cùng với mực tàu giấy đỏ, góp mặt vào
cái đông vui, tấp nập của phố phường. Hình ảnh
đó đã trở nên thân quen, không thể thiếu trong
mỗi dịp tết đến. Người ta xúm quanh lấy ông
"bao nhiêu người thuê viết", và rồi "tấm tắc ngợi
khen tài". Ông đồ thỏa lòng mình trên những
trang giấy "hoa tay thảo những nét/ Như phượng
múa, rồng bay". Tài viết chữ đẹp của ông đã
khiến mọi người ngưỡng mộ, tôn kính. Ông đồ
thực sự trở thành trung tâm của hè phố trong
những ngày tết đến.
Một trong những nét nghệ thuật tiêu biểu
được các nhà Thơ mới ưa dùng là cách sử
dụng những hình ảnh đối lập, tương phản.
ấn tượng đầu tiên của em sau khi đọc xong khổ 3,4 là gì? Hình ảnh ông đồ giữa hai phần thơ có gì khác nhau? Hiệu quả của nghệ thuật tương phản?
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi,
chạm vào nỗi đau của một thời tàn.
Xưa, cảnh bao nhiêu người chen chúc,
nay, lại là cảnh vắng vẻ đến thê lương.
Nỗi xót xa của ông đồ như truyền cả sang giấy đỏ, mực
tàu. Nghệ thuật nhân hóa đã nói lên nỗi sầu, tủi của ông
đồ. Ông đồ ngồi đó, chẳng ai thuê ông viết, giấy cũng
chẳng thắm mà mực cũng đọng lại một nỗi sầu. Cả ông
đồ và những đồ vật thân thuộc, gắn bó với ông trở nên
tàn tạ, thành thứ bị thừa, lãng quên, đối lập với cảnh
phố xá ngày xuân vẫn tập nập phía trước.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Con người đã thờ ơ biết bao trước sự góp mặt
của ông trên đường phố. Sự đối lập giữa cảnh
huy hoàng ngày trước và sự tàn tạ của lúc này
khiến ông nặng lòng một nỗi sầu, một tấn bi
kịch. Chỉ có thiên nhiên là chia sẻ cùng ông:
"lá vàng rơi. mưa bụi bay".
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Bài thơ mở đầu: "mỗi năm hoa đào nở." rồi "mỗi năm
mỗi vắng", và kết thúc "năm nay đào lại nở/ Không thấy
ông đồ xưa", sự khác nhau trong từng giai đoạn thời gian
ấy là sự mất dần hình ảnh ông đồ trong nét đẹp cổ truyền
của dân tộc. Vũ Đình Liên nói rằng hình ảnh ông đồ khi
ấy chỉ còn là "cái di tích tiều tụy của một thời tàn". Kiểu
kết cấu đầu cuối tương ứng đã làm nổi bật chủ đề của bài
thơ. Ông đồ chỉ còn lại trong tâm thức, trong nỗi xót xa
mỗi khi tết đến, xuân về mà thôi. Một nét đẹp truyền
thống cũng mất đi theo "những người muôn năm cũ".
Nhà thơ xót xa thốt lên lời tự vấn:
"Hồn ở đâu bây giờ?"
Hình ảnh ông đồ trong vẻ đẹp truyền thống của dân
tộc gắn liền với hè phố trong những ngày tết ngồi
viết câu đối đỏ. Cùng với thịt mỡ, dưa hành, cây nêu,
tràng pháo, bánh chưng xanh. thì câu đối đỏ là thứ
không thể thiếu làm nên không khí thiêng liêng của
ngày tết. Chính ông đồ đã mang hơi xuân, mang bình
an và phúc lộc đến với muôn nhà. Vì những lẽ đó, sự
"ra đi" của hình ảnh ông đồ gieo vào lòng nhà thơ
những tiếc nuối khôn nguôi. Thế hệ "những người
muôn năm cũ" góp phần làm nên cái hồn dân tộc đã
bị thay thế bởi một lớp người mới. Số phận của
những ông đồ thật bất hạnh biết bao!
Nhà thơ thể hiện một cách kín đáo niềm
cảm thương chân thành đối với tình cảnh
những ông đồ đang tàn tạ trước sự đổi
thay của cuộc đời, đồng thời đó còn là sự
nhớ nhung, luyến tiếc những cảnh cũ
người xưa nay đã vắng bóng.
Theo em sự hoài cổ như vậy có bị coi là tiêu cực không?
Cái xưa cũ không còn nữa, cái mà
nhà thơ ngậm ngùi nhớ tiếc đã từng
gắn bó với đời sống Việt Nam hàng
trăm năm, lại mang một vẻ đẹp văn
hóa và gắn với những giá trị tinh
thần truyền thống thì niềm hoài cổ
ấy có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
4. Nghệ thuật
Luyện tập
- Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, sống thanh bần bằng nghề dạy học. Theo phong tục, khi tết đến, người ta sắm câu đối hoặc một đôi chữ Nho viết trên giấy đỏ dán lên vách, lên cột để năm mới tốt lành. Ông đồ rất được mọi người trọng vọng. Khi chế độ thi cử chữ Hán bị bãi bỏ, ông đồ hết thời, bị gạt ra ngoài lề cuộc sống mới. Lớp người xưa đã vắng bóng trong cuộc đời nhộn nhịp, để lại nỗi tiếc thương, ngậm ngùi.
I, Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm
Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu
thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ
không nhiều nhưng chỉ với bài Ông đồ, Vũ Đình
Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào
Thơ mới.
II, Đọc hiểu văn bản.
Em hãy cho biết nội dung chính của
mỗi phần?
Mỗi độ xuân về, tết đến, ông đồ xuất hiện bên
hè phố, cùng với mực tàu giấy đỏ, góp mặt vào
cái đông vui, tấp nập của phố phường. Hình ảnh
đó đã trở nên thân quen, không thể thiếu trong
mỗi dịp tết đến. Người ta xúm quanh lấy ông
"bao nhiêu người thuê viết", và rồi "tấm tắc ngợi
khen tài". Ông đồ thỏa lòng mình trên những
trang giấy "hoa tay thảo những nét/ Như phượng
múa, rồng bay". Tài viết chữ đẹp của ông đã
khiến mọi người ngưỡng mộ, tôn kính. Ông đồ
thực sự trở thành trung tâm của hè phố trong
những ngày tết đến.
Một trong những nét nghệ thuật tiêu biểu
được các nhà Thơ mới ưa dùng là cách sử
dụng những hình ảnh đối lập, tương phản.
ấn tượng đầu tiên của em sau khi đọc xong khổ 3,4 là gì? Hình ảnh ông đồ giữa hai phần thơ có gì khác nhau? Hiệu quả của nghệ thuật tương phản?
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi,
chạm vào nỗi đau của một thời tàn.
Xưa, cảnh bao nhiêu người chen chúc,
nay, lại là cảnh vắng vẻ đến thê lương.
Nỗi xót xa của ông đồ như truyền cả sang giấy đỏ, mực
tàu. Nghệ thuật nhân hóa đã nói lên nỗi sầu, tủi của ông
đồ. Ông đồ ngồi đó, chẳng ai thuê ông viết, giấy cũng
chẳng thắm mà mực cũng đọng lại một nỗi sầu. Cả ông
đồ và những đồ vật thân thuộc, gắn bó với ông trở nên
tàn tạ, thành thứ bị thừa, lãng quên, đối lập với cảnh
phố xá ngày xuân vẫn tập nập phía trước.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Con người đã thờ ơ biết bao trước sự góp mặt
của ông trên đường phố. Sự đối lập giữa cảnh
huy hoàng ngày trước và sự tàn tạ của lúc này
khiến ông nặng lòng một nỗi sầu, một tấn bi
kịch. Chỉ có thiên nhiên là chia sẻ cùng ông:
"lá vàng rơi. mưa bụi bay".
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Bài thơ mở đầu: "mỗi năm hoa đào nở." rồi "mỗi năm
mỗi vắng", và kết thúc "năm nay đào lại nở/ Không thấy
ông đồ xưa", sự khác nhau trong từng giai đoạn thời gian
ấy là sự mất dần hình ảnh ông đồ trong nét đẹp cổ truyền
của dân tộc. Vũ Đình Liên nói rằng hình ảnh ông đồ khi
ấy chỉ còn là "cái di tích tiều tụy của một thời tàn". Kiểu
kết cấu đầu cuối tương ứng đã làm nổi bật chủ đề của bài
thơ. Ông đồ chỉ còn lại trong tâm thức, trong nỗi xót xa
mỗi khi tết đến, xuân về mà thôi. Một nét đẹp truyền
thống cũng mất đi theo "những người muôn năm cũ".
Nhà thơ xót xa thốt lên lời tự vấn:
"Hồn ở đâu bây giờ?"
Hình ảnh ông đồ trong vẻ đẹp truyền thống của dân
tộc gắn liền với hè phố trong những ngày tết ngồi
viết câu đối đỏ. Cùng với thịt mỡ, dưa hành, cây nêu,
tràng pháo, bánh chưng xanh. thì câu đối đỏ là thứ
không thể thiếu làm nên không khí thiêng liêng của
ngày tết. Chính ông đồ đã mang hơi xuân, mang bình
an và phúc lộc đến với muôn nhà. Vì những lẽ đó, sự
"ra đi" của hình ảnh ông đồ gieo vào lòng nhà thơ
những tiếc nuối khôn nguôi. Thế hệ "những người
muôn năm cũ" góp phần làm nên cái hồn dân tộc đã
bị thay thế bởi một lớp người mới. Số phận của
những ông đồ thật bất hạnh biết bao!
Nhà thơ thể hiện một cách kín đáo niềm
cảm thương chân thành đối với tình cảnh
những ông đồ đang tàn tạ trước sự đổi
thay của cuộc đời, đồng thời đó còn là sự
nhớ nhung, luyến tiếc những cảnh cũ
người xưa nay đã vắng bóng.
Theo em sự hoài cổ như vậy có bị coi là tiêu cực không?
Cái xưa cũ không còn nữa, cái mà
nhà thơ ngậm ngùi nhớ tiếc đã từng
gắn bó với đời sống Việt Nam hàng
trăm năm, lại mang một vẻ đẹp văn
hóa và gắn với những giá trị tinh
thần truyền thống thì niềm hoài cổ
ấy có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
4. Nghệ thuật
Luyện tập
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Kim Lan
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)