Bài 15. Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
Chia sẻ bởi Phùng Thị Xuân Thu |
Ngày 02/05/2019 |
23
Chia sẻ tài liệu: Bài 15. Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
Chương trình địa phương
Văn 8
CHỢ BẾN THÀNH
VÀO NHÀ NGỤC QUẢNG ĐÔNG CẢM TÁC
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù
Đã khách không nhà trong bốn bể ,
Lại người có tội giữa năm châu .
Dang tay ôm chặt bồ kinh tế ,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù .
Thân ấy hãy còn , còn sự nghiệp ,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu !
PHAN BỘI CHÂU
(1867-1940)
Hiệu Sào Nam
Quê Nghệ An
_ Là nhà yêu nước , cách mạng lớn nhất của dân tộc Việt Nam trong hai mươi năm đầu thế kỷ XX.
_ Còn là nhà văn nhà thơ lớn.
Tác phẩm: hầu hết đều thấm đượm tình cảm yêu nước thương dân thấm thiết:
Phan Bội Châu niên biểu
Hải ngoại huyết thư
Sào Nam thi tập
HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Năm 1914 Phan Bội Châu bị bắt tại tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc)
Đây là một trong hai bài thơ được làm trong nhà ngục
ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN
PHAN CHÂU TRINH
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con !
PHAN CHÂU TRINH
(1872-1926)
Hiệu Tây Hồ , Hi Mã
Quê: tỉnh Quảng Nam.
.Là nhà yêu nước lớn, có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam .Những sáng tác của ông đã góp phần dấy lên phong trào cách mạng Việt Nam.
Tác phẩm
Tỉnh quốc hồn ca I , II, Tây Hồ thi tập.
HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
Năm 1908 Phan Châu Trinh bị tố cáo đã khởi xướng phong trào chống thuế ở Trung Kỳ nên bị đày đi Côn Đảo . Bài thơ được sáng tác trong giai đoạn này.
Nguyễn Ái Quốc:
1890-1969
Quê: Nghệ An .
Nguyễn Ái Quốc là tên dùng trước 1945 của Bác.
Là lãnh tụ của CMVN, còn là nhà văn , nhà thơ lớn.
Tác phẩm
+Nhật ký trong tù
+Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu.
Nhân dịp Varen nhận chức toàn quyền Đông Dương hứa sẽ chăm sóc Phan Bội Châu để xoa dịu lòng dân, Nguyễn Ái Quốc viết truyện ngắn này để vạch trần sự phản bội của quan toàn quyền.
Tên: Nguyễn Khắc Hiếu
Quê: tỉnh Sơn Tây
TẢN ĐÀ
(1889-1939)
Là nhà thơ nổi bật nhất trên văn đàn khu vực hợp pháp ba mươi năm đầu thế kỷ
Một hồn thơ dồi dào, phóng túng , đầy lãng mạn
TÁC PHẨM
Khối tình con
Thề non nước.
Thề non nước
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi .
Cung quế đã ai ngồi đó chửa ?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi .
Có bầu có bạn , can chi tủi ,
Cùng gió cùng mây thế mới vui .
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám ,
Tựa nhau trông xuống thế gian
cười .
HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
Tản đà sống thanh cao , hồn nhiên , có cá tính
Bài thơ là tiếng lòng của
tác giả , nêu lên mối bất
hòa sâu sắc với thực tại
Muốn tìm cách thoát ly trong thơ
Phạm Duy Tốn
SỐNG CHẾT MẶC BÂY
(1883-1924)
Quê: Tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây).
Là cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất nước ta khoảng 30 năm đầu thế kỷ.
Tiểu Sử:
? Sống chết mặc bây
? Con người sở khanh.
Tác phẩm
Viết bằng chữ quốc ngữ vào tháng 7-1918
Được xem là sáng tác thành công nhất của Phạm Duy Tốn
(1907-1989)
Tên : Nguyễn Thứ Lễ
Là nhà thơ có công đầu trong phong trào "Thơ mới" với hồn thơ dồi dào , đầy lãng mạn , giàu màu sắc và nhạc điệu.
Thế Lữ
Ngoài thơ ông còn viết truyện , hoạt động sân khấu , kịch nói.
Tác phẩm: Mấy vần thơ, Nhớ rừng.
NHỚ RỪNG
(.)Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối.
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn.
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới ?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng ?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng .
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt ,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật ?
Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?
Mượn lời con Hổ bị nhốt trong vườn Bách thú để nói lên tâm sự u uất và niềm khao khát tự do mãnh liệt của nhân dân Việt Nam thời bấy giờ
Vũ Đình Liên
(1913 - 1996)
Quê: Hà Nội
Tham gia phong trào "Thơ mới" từ những ngày đầu với một hồn thơ nhân hậu , giàu tình thương người và mang niềm hoài cổ . Ngoài làm thơ ông còn nghiên cứu văn học và dạy học.
TIỂU SỬ
ÔNG ĐỒ
Vũ Đình Liên
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay".
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thấm;
Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
CHỦ ĐỀ
Niềm thương cảm chân thành về một lớp người tàn tạ và lòng hoài niệm về một thời quá khứ
(1921)
tên : Trần Tế Hanh
Quê:Giao Thủy
huyện Bình Sơn
tỉnh Quảng Ngãi
Một làng chài ven biển
Tế Hanh
Bài thơ Quê hương được sáng tác năm 1939 lúc Tế Hanh đang học ở Huế. Ông luôn dành cho quê hương những tình cảm sâu nặng thiết tha nhất.
Sinh 1910 mất 1942
Tên: Nguyễn Tường Vinh sau đổi là Nguyễn Tường Lân , sinh sống ở Hà Nội .
GIÓ LẠNH ĐẦU MÙA
THẠCH LAM
Sở trường về truyện ngắn giàu chất thơ và thắm đượm niềm cảm thương chân thành đối với những kiếp người bất hạnh.
Tác phẩm: Gió đầu mùa , Nắng trong vườn , Sợi tóc.
Lòng thương người hồn nhiên chân thật đối với những bạn nghèo
Nguyên Hồng
(1918-1982)
Tên: Nguyễn Nguyên Hồng
Quê: Nam Định , chủ yếu sống ở Hải Phòng
Thường viết về những lớp người cùng khổ với niềm yêu thương sâu sắc , mãnh liệt , nên ông được gọi là nhà văn của những người lao động cùng khổ
Tác phẩm:
Bỉ vỏ
Những ngày thơ ấu
Trời xanh cửa biển.
TRONG LÒNG MẸ
Những ngày thơ ấu" là tập hồi ký gồm chín chương , mỗi chương là một kỷ niệm về thời thơ ấu cay đắng , ít niềm vui của tác giả.
1. HÀN MẠC TỬ
a/ Tiểu sử
Hàn Mặc Tử(1912-1940) tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm.
Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Các tập thơ đã xuất bản : Gái quê (1936), Thơ Hàn Mặc Tử (1959) gồm có: Thơ Đường Luật, Gái Quê, Đau Thương (lúc đầu mang tên Thơ điên), Xuân Như Ý.
b/ Tác phẩm tiêu biểu
Mùa xuân chín, Gái quê, Đây thôn Vĩ Dạ, Trăng vàng trăng ngọc, Sáng trăng, Say nắng,Khói hương tàn, ………
c/ Hình ảnh
ĐỒNG HỚI
MỘ HÀN MẠC TỬ
( QUI NHƠN )
BÊN MỘ HÀN MẠC TỬ
d/ Tác phẩm tiêu biểu
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
TRĂNG VÀNG TRĂNG NGỌC
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò...
Bao giờ đậu trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.
Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hòn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
2/ VÕ QUẢNG
a/ Tiểu sử
Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920, tại xã Đại Hòa huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Năm 1935, trong khi đang theo học Tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ ở Huế, năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở quê nhà.
Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tòa án quân sự miền Nam Việt Nam
Năm 1965, ông được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hóa, năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu.
Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
b/ tác phẩm tiêu biểu
Cái Thăng (truyện 1961)
Thấy cái hoa nở (thơ 1962)
Chỗ cây đa làng (1964)
Nắng sớm (thơ, 1965)
Cái Mai (1967)
Những chiếc áo ấm (truyện 1970)
Anh Đom đóm (thơ, 1970)
Măng tre (thơ, 1972)
Quê nội (truyện 1973)
Tảng sáng (truyện 1973)
Bài học tốt (truyện, 1975)
Gà mái hoa (thơ 1975)
Quả đỏ (thơ 1980)
Vượn hú (truyện 1993)
Ánh nắng sớm (thơ 1993)
Kinh tuyến, vĩ tuyến (truyện 1995)
Sơn Tinh Thủy Tinh, Con 2 (kịch bản phim hoạt hình).
Ngoài ra, ông còn có bài đồng dao cho trẻ em nổi tiếng “Mời vào”
Cốc, cốc, cốc!
Ai gọi đó?
Tôi là Thỏ
Nếu là Thỏ
Cho xem tai
Cốc, cốc, cốc!
Ai gọi đó?
Tôi là Nai
Nếu là Nai
Cho xem gạc.
Cốc, cốc, cốc!
Ai gọi đó?
Tôi là Gió
Nếu là Gió
Xin mời vào!
Kiễng chân cao
Trèo qua cửa
Cùng soạn sửa
Đón trăng lên
Quạt mát thêm
Hơi biển cả
Reo hoa lá
Đẩy buồm thuyền...
Đi khắp miền
Làm việc tốt
3/ HUY CẬN
a/ Tiểu sử
Ông sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ông là được giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau này ông làm thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ. Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996).
Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội.
b/ Tác phẩm tiêu biểu
Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi, 1967), Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Họp mặt thiếu niên anh hùng (1973), Những người mẹ, những người vợ (1974), Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984) … Lửa Thiêng (1940)
Vũ trụ ca (1940-1942)
Trời mỗi ngày lại sáng (1958)
Đất nở hoa (1960)
Bài thơ cuộc đời (1963)
Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi, 1967)
Những năm sáu mươi (1968)
Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973)
Họp mặt thiếu niên anh hùng (1973)
Những người mẹ, những người vợ (1974)
Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975)
Ngôi nhà giữa nắng (1978)
Hạt lại gieo (1984
NHỚ MẸ NĂM LỤT
Năm ấy lụt to tận mái nhà
Mẹ con lên chạn - Bố đi xa
Bốn bề nước réo, nghe ghê lạnh
Tay mẹ trùm con, tựa mẹ gà.
Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc
Thương con lúc ấy biết gì hơn ?
Nước mà cao nữa không bè thúng
Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con.
Gọi với láng giềng, lời mẹ dặn
“Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!”
Tiếng dờn giữa nước mênh mông trắng
Đáp lại từ xa một tiếng “ời”
Nước, nước… lạnh tê như số phận
Lắt lay còn ngọn mấy hàng cau
Nhưng mà mẹ thức ngồi canh chạn
Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu.
Vậy đó mẹ ơi, đời của mẹ
Đường trơn bấu đất mẹ kiên gan
Nuôi con lớn giữa bao cay cực
Nước lụt đời lên mẹ cắn răng.
Năm ấy vườn cau long mấy gốc
Rầy đi một dạo, trái cau còi
Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc
Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi.
NGẬM NGÙI
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ, anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau ?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…
4/ XUÂN DIỆU
Xuân Diệu (2 tháng 2 năm 1916 - 18 tháng 12 năm 1985), tên thật là Ngô Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn nhất Việt Nam. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió". Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 - 1944. Ông được tôn vinh là "ông hoàng của thơ tình", "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" trong phong trào thơ mới đầu thế kỷ 20. Ông từng được Hoài Thanh và Hoài Chân đánh gia trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1942) "thiết tha, rạo rực, băn khăn" như Xuân Diệu.
ĐÂY MÙA THU TỚI
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới! Mùa thu tới
với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
XA CÁCH
Có một bận em ngồi xa anh quá
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn,
Em xích gần hơn một chút anh hờn,
Em ngoan ngoãn xích gần hơn chút nữa.
Anh sắp giận, em mỉm cười, vội vã
Đến kề anh, và mơn trớn: “Em đây”
Anh vui liền, nhưng bỗng lại buồn ngay.
Vì anh nghĩ, thế vẫn còn xa lắm.
Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
Ôi trời xa, vừng trán của người yêu!
Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều
Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng.
Dầu tin tưởng: Chung một đời, một mộng,
Em là em; anh vẫn cứ là anh.
Có thể nào qua Vạn Lí trường thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
Thương nhớ cũ trôi theo ngày tháng mất,
Quá khứ anh, anh không nhắc cùng em.
- Linh hồn ta còn u ẩn hơn đêm,
Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ.
Kiếm mãi, nghi hoài, hay ghen bóng gió,
Anh muốn vào dò xét giấc em mơ,
Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ,
Cũng như em giấu những điều quá thực…
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng;
Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng:
“Gần thêm nữa! Thế vẫn còn xa lắm!”
Đoàn Giỏi (17 tháng 5 năm 1925 - 2 tháng 4 năm 1989), là một nhà văn hiện đại Việt Nam, hội viên Hội NhàĐoàn Giỏi sinh ở quê tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình địa chủ. Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940. Khi Cách mạng tháng Tám thành công và toàn quốc kháng chiến bùng nổ, gia đình ông đã tự nguyện hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính quyền Việt Minh văn Việt Nam từ năm 1957. Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư. Ngày 7 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đặt tên ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú
Rừng dừa nước miền tây
Nhà văn Sơn Nam
Nhà văn Sơn Nam, sinh ngày 11/12/ 1926 tại Kiên Giang. Ông bắt đầu nghiệp văn của mình từ năm 1955 và là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1977.
Tác phẩm đã xuất bản: Chuyện xưa tình cũ (1958), Tìm hiểu đất Hậu Giang (nghiên cứu, 1959), Hương rừng Cà Mau (1962), Chim quyên xuống đất (1963), Hình bóng cũ (1964), Vạch một chân trời (1968), Hai cõi U Minh, Vọc nước giỡn trăng, Bà chúa hòn, Đồng bằng sông Cửu long hay là văn minh miệt vườn; Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Bến Nghé xưa (1981)...
Những tác phẩm gần đây của ông: Hồi ký Sơn Nam, Theo chân người tình và một mảnh tình riêng, Tìm hiểu đất Hậu Giang và lịch sử đất An Giang, Từ U Minh đến Cần Thơ, Xóm Bàu Láng...
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phùng Thị Xuân Thu
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)