Bài 15. Ôn tập phần Tập làm văn

Chia sẻ bởi Thế Duy | Ngày 07/05/2019 | 34

Chia sẻ tài liệu: Bài 15. Ôn tập phần Tập làm văn thuộc Ngữ văn 9

Nội dung tài liệu:

CHÀO MỪNG QUÍ THẦY CÔ GIÁO VỀ DỰ GIỜ SINH HOẠT CỤM TRƯỜNG
NĂM HỌC 2012-2013
TIẾT 82
Tập làm văn

ÔN TẬP PHẦN TẬP LÀM VĂN
I/ LÍ THUYẾT
Câu 1:
Hỏi:
Phần TLV trong Ngữ văn 9, tập một có những nội dung lớn nào?
Hỏi:
Những nội dung nào là trọng tâm cần chú ý?
Ngữ văn 9, tập một cung cấp các nội dung lớn sau :
- Văn bản thuyết minh với trọng tâm là luyện tập việc kết hợp giữa thuyết minh với các biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả.
- Văn bản tự sự với hai trọng tâm:
Một là: sự kết hợp giữa tự sự với biểu cảm và miêu tả nội tâm, giữa tự sự với nghị luận.
Hai là: một số nội dung mới trong văn bản tự sự như: đối thoại và độc thoại nội tâm trong tự sự; người kể chuyện và vai trò của người kể chuyện trong tự sự.
Câu 2:
I/ LÍ THUYẾT
Vai trò, vị trí, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh như thế nào?
Hỏi:
Hỏi:
Cho VD minh hoạ.
Vai trò, vị trí, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh làm cho bài viết sinh động và hấp dẫn.
Ví dụ : khi thuyết minh về một ngôi chùa cổ, người thuyết minh có khi phải sử dụng những liên tưởng, tưởng tượng, lối so sánh nhân hoá ( như ngôi chùa tự kể chuyện mình) để khơi gợi sự cảm thụ về đối tượng cần thuyết minh. Vận dụng miêu tả một số hình ảnh cụ thể như màu sắc, không gian, hình khối, cảnh vật xung quanh… để người nghe ( người đọc) hình dung ra dáng vẻ của ngôi chùa.
I/ LÍ THUYẾT
Câu 3:
Hỏi:
Văn bản thuyết minh có yếu tố miêu tả, tự sự giống và khác với văn bản miêu tả, tự sự ở điểm nào?
Vai trò, vị trí kết hợp nhằm làm nổi bật đối tượng cần thuyết minh.
Giống
Đặc điểm, tính chất của thể loại văn bản.
Khác
I/ LÍ THUYẾT
Hỏi:
Câu 4:
Sách Ngữ văn 9, tập một nêu lên những nội dung gì về văn bản tự sự ?
Vai trò, vị trí và tác dụng của các yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận trong văn bản tự sự như thế nào?
Hỏi:

-Vai trò, vị trí và tác dụng của các yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận trong văn bản tự sự vừa lặp lại vừa nâng cao
+ Nhận diện các yếu tố miêu tả nội tâm, nghị luận, đối thoại và độc thoại, người kể chuyện trong văn bản tự sự .
+ Kĩ năng kết hợp các phương thức trong một văn bản.
+ Thấy được vai trò, vị trí và tác dụng của các yếu tố miêu tả nội tâm, lập luận ; vai trò, tác dụng của đối thoại và độc thoại ; việc thay đổi các hình thức kể chuyện trong văn bản tự sự.
Sự kết hợp giữa tự sự với biểu cảm và miêu tả nội tâm, giữa tự sự với nghị luận.
Một số nội dung mới trong VB tự sự như: đối thoại và độc thoại nội tâm trong tự sự; người kể chuyện và vai trò của người kể chuyện trong tự sự.
Văn bản tự sự với 2 trọng tâm
Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị rất chu đáo cho con trước ngày khai trường. Còn điều gì để lo lắng nữa đâu! Mẹ không lo, nhưng vẫn không ngủ được.Cứ nhắm mắt lại là dường như vang bên tai tiếng đọc bài trầm bổng: “Hằng năm cứ vào cuối thu…Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

II/ THỰC HÀNH

1. Cho ví dụ một đoạn văn tự sự trong đó có sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm.
Đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm:
(LÍ LAN,Cổng trường mở ra, trong Ngữ văn 7, tập I)
Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị rất chu đáo cho con trước ngày khai trường. Còn điều gì để lo lắng nữa đâu! Mẹ không lo, nhưng vẫn không ngủ được.Cứ nhắm mắt lại là dường như vang bên tai tiếng đọc bài trầm bổng: “Hằng năm cứ vào cuối thu…Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

Hỏi: Qua yếu tố miêu tả nội tâm trong đoạn văn trên, em hiểu tâm trạng gì của người mẹ ?
II/ THỰC HÀNH

2. Cho ví dụ một đoạn văn tự sư có sử dụng yếu tố nghị luận
Vua Quang Trung cỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long,các người đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy,đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.Đòi Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng về phương Bắc. Ở các thời đại ấy,Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài.Từ đời nhà Đinh tới nay, dân ta không đén nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tông, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chung.Các người đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo ta là không nói trước!
Đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận:
(Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí trong Ngữ văn 9, tập I)
Vua Quang Trung cỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long,các người đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy,đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng về phương Bắc. Ở các thời đại ấy,Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài.Từ đời nhà Đinh tới nay, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tông, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng.Các người đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo ta là không nói trước!
Hỏi: Sử dụng yếu tố nghị luận trong đoạn văn trên có tác dụng như thế nào?
II/ THỰC HÀNH
3. Cho ví dụ một đoạn văn tự sự có sử dụng cả yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận.
Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế . Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ …Một hôm, tôi phàn nàn việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc, bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:
- Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẫm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: lão vừa xin tôi một ít bả chó…
Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:
- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão…Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.
Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hét…Một người như thế ấy!...Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!...Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng…Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn.
Đoạn văn tự sự sử dụng cả miêu tả nội tâm và nghị luận:
( Nam Cao, Lão Hạc trong Ngữ văn 8, tập một)
Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế . Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ …Một hôm, tôi phàn nàn việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc, bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:
- Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: lão vừa xin tôi một ít bả chó…
Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:
- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão…Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.
Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết…Một người như thế ấy!...Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!...Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng…Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn.
Hỏi: Trình bày nhận xét của em về đoạn văn trên.
Đọc đoạn trích
(Kim Lân, Làng, Ngữ văn 9. tập 1)
4.
Có người hỏi :
-Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?...
-Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to :
-Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú :
-Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ, ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương, Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cui gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường,mấy đứa trẻ hôm nay thấy bố có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sập chơi sụi với nhau.
Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
-Chúng bây ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
Hỏi: Tìm trong đoạn văn trên những câu văn có sử dụng yếu tố đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm.
4.
Có người hỏi :
-Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?...
-Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to :
-Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú :
-Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ, ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương, Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cui gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường,mấy đứa trẻ hôm nay thấy bố có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sập chơi sụi với nhau.Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra.
Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…

-Chúng bây ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.

Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
4.
Hỏi: Chỉ ra câu nào là đối thoại, câu nào là độc thoại, câu nào là độc thoại nội tâm
Có người hỏi :
-Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?...
-Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to :
-Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú :
-Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ, ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương, Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cui gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường,mấy đứa trẻ hôm nay thấy bố có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sập chơi sụi với nhau.Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra.
Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
-Chúng bây ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
* Những câu văn đối thoại:
- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà ?...
Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói …mỗi đứa một nhát.
* Những câu văn độc thoại:
- Hà, nắng gớm, về nào…
- Chúng bây ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!
* Những câu văn độc thoại nội tâm như:
“Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…”
Hỏi: Vậy, thế nào là đối thoại, thế nào là độc thoại và độc thoại nội tâm?
Hỏi: Các hình thức diễn đạt trên có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện không khí của câu chuyện và thái độ của những người tham gia câu chuyện?
Hỏi: Đặc biệt chúng đã giúp nhà văn thể hiện thành công về nhân vật ông Hai như thế nào?
CẢM ƠN CÁC THẦY CÔ
ĐÃ CHÚ Ý LẮNG NGHE
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Thế Duy
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)