Bài 14. Luyện nói: Thuyết minh về một thứ đồ dùng
Chia sẻ bởi Vũ Thị Ngọc |
Ngày 03/05/2019 |
33
Chia sẻ tài liệu: Bài 14. Luyện nói: Thuyết minh về một thứ đồ dùng thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
THUYẾT MINH VỀ CHIẾC ÁO DÀI VIỆT NAM
Thực hiện : Tổ 3 lớp 8A1 trường THCS Ngọc Lâm
Sự ra đời của chiếc áo dài Việt Nam
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa,
tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải“.
Lịch sử phát triển của chiếc áo dài
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán,
chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ
hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu,
và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.
Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam.
Dưới thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong hàng vạn người Minh Hương bất mãn với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp. Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau:
"Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép ...", có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765).
Sau đó, mẫu áo dài của người Chăm được phối với áo dài của phụ nữ Thượng Hải để cho ra đời chiếc áo dài Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc Khoát được coi là ‘ nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên’ .
Thời vua Minh Mạng
Theo ước đoán,áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống.
"Đời sống mới’’
Nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì: mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được
ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài.
Áo dài Le Mur
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của tên Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên 1930
đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Aó Le Mur
may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Aó phải đi với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm
Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá
hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.
Áo dài với tay giác lăng
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài :
những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.
Áo dài miniraglan
Áo dài miniraglan
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương.
Cấu tạo và cách may áo dài
Muốn may một chiếc áo dài đẹp đầu tiên phải chon lọa vải đẹp, phù hợp với màu da và khuôn mặt. Muốn chọn vải đẹp, có thể đến các địa chỉ như lụa Hà Đông, gấm Thái Tuấn,…
Chiếc áo dài phải phù hợp với vóc dáng cơ thể.Cổ áo thường may từ 1 – 3 cm bằng hồ cứng.Tay áo hơi bó,suôn dần đến bàn tay.Aó gồm vạt trước và vạt sau,để ghép nối hai mảnh
với nhau người ta phải may đường may mềm mại uốn lượn theo cơ thể. Một chiếc áo dài đẹp
tránh đường may thô, tạo cảm giác cứng ngắc, khó chịu. Nách áo phải được may thật cẩn thận. Các khuy áo có độ chính xác, tránh lộ ra phía ngoài. Đôi khi, người ta đơm thêm những chi tiết trang trí để chiếc áo dài thêm lộng lẫy.
Aó dài trong thơ ca
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài là nguồn cảm hứng cho rất nhiều thi sĩ, nhạc sĩ:
Bài thơ “Aó lụa Hà Đông” của Nguyên Sa có câu:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...
Bài "Tương tư" của Nguyên Sa cũng có đoạn ca ngợi chiếc áo dài:
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay
"Ngày xưa Hoàng Thị" của Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình thuở học sinh với cô gái họ Hoàng, cô xuất hiện trong bài với những nét phác họa:
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài".
Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành:
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...
Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh)
Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).
Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh
áo dài cũng chập chờn:
Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)
"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng":
Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ
Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940:
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo)
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...
Một số hình ảnh về chiếc áo dài
Dàn ý bài văn thuyết minh về chiếc áo dài
I/Mở bài
-Nêu lên đối tượng:Chiếc áo dài Việt Nam
VD: Cùng với chiếc nón lá, chiếc áo dài đã trở thành
II/Thân Bài
Ý1.Nguồn gốc, xuất xứ
+Không ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ
+Bắt nguồn từ áo tứ thân
+Chiếc áo dài đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển
- Tiền thân của áo dài Việt Nam là chiếc áo giao lãnh , giống áo từ thân
- Người có công khai sáng, định hình chiếc áo dài Việt Nam là chúa Nguyễn Phúc Khoát . Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết hợp giữa váy của người Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung hoa.
Ý2.Cấu tạo
+Áo dài từ cổ xuống đến chân
+Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thích của người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.
+Khuy áo thường là khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông.
+Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá chân,thân áo may sát vào phom người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo.
+Tay áo dài không có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo xuống cổ tay.
+Tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển.
+Áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng bằng lụa, satanh, phi bóng....với trang fục đó, người phụ nữ sẽ trở nên đài các, quý phái hơn.
+Chất liệu vải phong phú, đa dạng : lụa tơ tằm, nhung, gấm, nhiễu, voan,… nhưng đều có tính chất chung là mềm, nhẹ, thoáng mát.
+Màu sắc sặc sỡ như đỏ, hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh nhạt,...Tuỳ theo sở thích, độ tuổi.
Ý3.Gíá trị của chiếc áo dài
+Chiếc áo dài không chỉ là trang phục hằng ngày mà nó đã trở thành trang phục tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ.
+Aó dài được xem là trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam.Trong cuộc sống hiện đại,
phụ nữ có rất nhiều trang phục đẹp mắt, nhưng chiếc áo dài vẫn chiếm một ví trí hết sức quan trọng.Vào những ngày kỉ niệm lớn, phụ nữ đều mặc áo dài. Trong các cuộc thi hoa hậu luôn luôn có phần thi áo dài. ->Chiếc áo dài đã trở thành nét đẹp văn hóa, truyền thống của người Việt Nam.
+Chiếc áo dài là cầu nối đất nước với bạn bè thế giới
+Chiếc áo dài đã được tổ chức Unesco công nhận là di sản Văn hoá phi vật thể của đất nước
III/Kết bài
Khẳng định tầm quan trọng của chiếc áo dài và nhiêm vụ của lớp trẻ trong việc giữ gìn, bảo tồn giá trịn văn hóa ấy.
Chiếc áo dài đã thực sự trở thành một biểu tượng hết sức cao quý, là nét văn hóa, truyên thống của người Việt Nam. Vì vậy, nhiệm vụ của thế hệ trẻ bây giờ là phải giữ gìn, bảo tồn giá trị văn hóa ấy.
Bài văn thuyết minh về chiếc áo dài
Cùng với chiếc nón lá,chiếc áo dài đã trở thành một nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.Nó mang đậm bản sắc dân tộc và tượng trưng cho vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của người phụ nữ Việt.
Cho đến ngày nay, vẫn chưa ai biết nguồn gốc chính xác của chiếc áo dài. Nhưng hình ảnh chiếc áo dài Việt Nam có thể tìm thấy qua các mặt trống đồng cách đây vài nghìn năm. Phụ nữ Việt Nam xưa mặc những chiếc áo mớ ba, mớ bảy. Tuy nhiên, để thêm phần tế nhị, kín đáo
thì người ta khoác thêm chiếc áo dài thẫm bên ngoài, lấp ló bên trong là các lớp áo cánh nhiều màu.
Từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945,ở một số vùng,người ta mặc áo dài cả khi lao động nặng nhọc.Aó dài có hai loại: áo tứ thân và áo mảnh sau ghép liền ở giữa sống lưng, đằng trước là hai vạt áo không có khuy,khi mặc bỏ buông hay buộc thắt vào nhau.Aó năm thân cũng như áo tứ thân,chỉ có điều vạt trước phía trái may ghép hai thân và rộng gấp đôi vạt phải.Từ những
năm 30 của thế kỉ trước, chiếc áo dài cổ truyền được cải tiến thành chiếc áo dài tân thời.Chiếc áo dài tân thời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách dân tộc tế nhị, kín đáo và phong cách phương Tây hiện đại.
Có nhiều loai vải được sử dụng để may áo dài, như lụa tơ tằm, lụa tổng hợp, gấm, nhung,…nhưng tính chất chung của tất cả các loại vải là phải
mỏng và nhẹ. Phụ nữ trung niên thích áo dài bằng nhung, gấm đẻ mặc trong những dịp cưới hỏi, lễ tết. Còn thiếu nữ lại thích những chất liệu nhẹ nhàng và có màu sắc tươi mát. Chiếc áo dài đi đôi với quần lụa hay sa tanh tạo nên một vẻ đẹp tuyệt vời.
Nhiều nhà thiết kế thời trang bây giờ làm mới chiếc áo dài truyền thống bằng nhiều cách khác nhau như in vài dòng thơ hoặc tranh phong cảnh hay các họa tiết hoa văn lên áo dài, nhìn rất bắt mắt.
Trong cuộc sống hiện đại, chiếc áo dài xuất hiên phổ biến nơi trường học, công sở vào các dịp vào những dịp lễ kỉ niệm hay ngay cả ngày thường.Nó đã trở nên quá quen thuộc với mọi người.Du khách nước ngoài và bạn bè khắp năm châu mỗi khi đặt chân đến Việt Nam đều rất thích chiếc áo dài , nó đã trở thành một món quà lưu niêm đặc biệt về một đất nước giàu truyền thống, văn hóa đối với du khách nước ngoài.
Chiếc áo dài đã thực sự trở thành một biểu tượng hết sức cao quý, là nét đẹp văn hóa ,truyền thống của con người Việt Nam. Vì vậy, nhiêm vụ của thế hệ trẻ bây giờ là phải giữ gìn, bảo tồn giá trị văn hóa ấy.
Thực hiện : Tổ 3 lớp 8A1 trường THCS Ngọc Lâm
Sự ra đời của chiếc áo dài Việt Nam
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa,
tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải“.
Lịch sử phát triển của chiếc áo dài
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán,
chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ
hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu,
và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.
Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam.
Dưới thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong hàng vạn người Minh Hương bất mãn với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp. Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau:
"Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép ...", có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765).
Sau đó, mẫu áo dài của người Chăm được phối với áo dài của phụ nữ Thượng Hải để cho ra đời chiếc áo dài Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc Khoát được coi là ‘ nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên’ .
Thời vua Minh Mạng
Theo ước đoán,áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống.
"Đời sống mới’’
Nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì: mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được
ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài.
Áo dài Le Mur
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của tên Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên 1930
đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Aó Le Mur
may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Aó phải đi với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm
Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá
hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.
Áo dài với tay giác lăng
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài :
những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.
Áo dài miniraglan
Áo dài miniraglan
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương.
Cấu tạo và cách may áo dài
Muốn may một chiếc áo dài đẹp đầu tiên phải chon lọa vải đẹp, phù hợp với màu da và khuôn mặt. Muốn chọn vải đẹp, có thể đến các địa chỉ như lụa Hà Đông, gấm Thái Tuấn,…
Chiếc áo dài phải phù hợp với vóc dáng cơ thể.Cổ áo thường may từ 1 – 3 cm bằng hồ cứng.Tay áo hơi bó,suôn dần đến bàn tay.Aó gồm vạt trước và vạt sau,để ghép nối hai mảnh
với nhau người ta phải may đường may mềm mại uốn lượn theo cơ thể. Một chiếc áo dài đẹp
tránh đường may thô, tạo cảm giác cứng ngắc, khó chịu. Nách áo phải được may thật cẩn thận. Các khuy áo có độ chính xác, tránh lộ ra phía ngoài. Đôi khi, người ta đơm thêm những chi tiết trang trí để chiếc áo dài thêm lộng lẫy.
Aó dài trong thơ ca
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài là nguồn cảm hứng cho rất nhiều thi sĩ, nhạc sĩ:
Bài thơ “Aó lụa Hà Đông” của Nguyên Sa có câu:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...
Bài "Tương tư" của Nguyên Sa cũng có đoạn ca ngợi chiếc áo dài:
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay
"Ngày xưa Hoàng Thị" của Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình thuở học sinh với cô gái họ Hoàng, cô xuất hiện trong bài với những nét phác họa:
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài".
Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành:
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...
Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh)
Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).
Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh
áo dài cũng chập chờn:
Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)
"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng":
Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ
Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940:
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo)
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...
Một số hình ảnh về chiếc áo dài
Dàn ý bài văn thuyết minh về chiếc áo dài
I/Mở bài
-Nêu lên đối tượng:Chiếc áo dài Việt Nam
VD: Cùng với chiếc nón lá, chiếc áo dài đã trở thành
II/Thân Bài
Ý1.Nguồn gốc, xuất xứ
+Không ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ
+Bắt nguồn từ áo tứ thân
+Chiếc áo dài đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển
- Tiền thân của áo dài Việt Nam là chiếc áo giao lãnh , giống áo từ thân
- Người có công khai sáng, định hình chiếc áo dài Việt Nam là chúa Nguyễn Phúc Khoát . Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết hợp giữa váy của người Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung hoa.
Ý2.Cấu tạo
+Áo dài từ cổ xuống đến chân
+Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thích của người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.
+Khuy áo thường là khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông.
+Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá chân,thân áo may sát vào phom người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo.
+Tay áo dài không có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo xuống cổ tay.
+Tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển.
+Áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng bằng lụa, satanh, phi bóng....với trang fục đó, người phụ nữ sẽ trở nên đài các, quý phái hơn.
+Chất liệu vải phong phú, đa dạng : lụa tơ tằm, nhung, gấm, nhiễu, voan,… nhưng đều có tính chất chung là mềm, nhẹ, thoáng mát.
+Màu sắc sặc sỡ như đỏ, hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh nhạt,...Tuỳ theo sở thích, độ tuổi.
Ý3.Gíá trị của chiếc áo dài
+Chiếc áo dài không chỉ là trang phục hằng ngày mà nó đã trở thành trang phục tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ.
+Aó dài được xem là trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam.Trong cuộc sống hiện đại,
phụ nữ có rất nhiều trang phục đẹp mắt, nhưng chiếc áo dài vẫn chiếm một ví trí hết sức quan trọng.Vào những ngày kỉ niệm lớn, phụ nữ đều mặc áo dài. Trong các cuộc thi hoa hậu luôn luôn có phần thi áo dài. ->Chiếc áo dài đã trở thành nét đẹp văn hóa, truyền thống của người Việt Nam.
+Chiếc áo dài là cầu nối đất nước với bạn bè thế giới
+Chiếc áo dài đã được tổ chức Unesco công nhận là di sản Văn hoá phi vật thể của đất nước
III/Kết bài
Khẳng định tầm quan trọng của chiếc áo dài và nhiêm vụ của lớp trẻ trong việc giữ gìn, bảo tồn giá trịn văn hóa ấy.
Chiếc áo dài đã thực sự trở thành một biểu tượng hết sức cao quý, là nét văn hóa, truyên thống của người Việt Nam. Vì vậy, nhiệm vụ của thế hệ trẻ bây giờ là phải giữ gìn, bảo tồn giá trị văn hóa ấy.
Bài văn thuyết minh về chiếc áo dài
Cùng với chiếc nón lá,chiếc áo dài đã trở thành một nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.Nó mang đậm bản sắc dân tộc và tượng trưng cho vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của người phụ nữ Việt.
Cho đến ngày nay, vẫn chưa ai biết nguồn gốc chính xác của chiếc áo dài. Nhưng hình ảnh chiếc áo dài Việt Nam có thể tìm thấy qua các mặt trống đồng cách đây vài nghìn năm. Phụ nữ Việt Nam xưa mặc những chiếc áo mớ ba, mớ bảy. Tuy nhiên, để thêm phần tế nhị, kín đáo
thì người ta khoác thêm chiếc áo dài thẫm bên ngoài, lấp ló bên trong là các lớp áo cánh nhiều màu.
Từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945,ở một số vùng,người ta mặc áo dài cả khi lao động nặng nhọc.Aó dài có hai loại: áo tứ thân và áo mảnh sau ghép liền ở giữa sống lưng, đằng trước là hai vạt áo không có khuy,khi mặc bỏ buông hay buộc thắt vào nhau.Aó năm thân cũng như áo tứ thân,chỉ có điều vạt trước phía trái may ghép hai thân và rộng gấp đôi vạt phải.Từ những
năm 30 của thế kỉ trước, chiếc áo dài cổ truyền được cải tiến thành chiếc áo dài tân thời.Chiếc áo dài tân thời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách dân tộc tế nhị, kín đáo và phong cách phương Tây hiện đại.
Có nhiều loai vải được sử dụng để may áo dài, như lụa tơ tằm, lụa tổng hợp, gấm, nhung,…nhưng tính chất chung của tất cả các loại vải là phải
mỏng và nhẹ. Phụ nữ trung niên thích áo dài bằng nhung, gấm đẻ mặc trong những dịp cưới hỏi, lễ tết. Còn thiếu nữ lại thích những chất liệu nhẹ nhàng và có màu sắc tươi mát. Chiếc áo dài đi đôi với quần lụa hay sa tanh tạo nên một vẻ đẹp tuyệt vời.
Nhiều nhà thiết kế thời trang bây giờ làm mới chiếc áo dài truyền thống bằng nhiều cách khác nhau như in vài dòng thơ hoặc tranh phong cảnh hay các họa tiết hoa văn lên áo dài, nhìn rất bắt mắt.
Trong cuộc sống hiện đại, chiếc áo dài xuất hiên phổ biến nơi trường học, công sở vào các dịp vào những dịp lễ kỉ niệm hay ngay cả ngày thường.Nó đã trở nên quá quen thuộc với mọi người.Du khách nước ngoài và bạn bè khắp năm châu mỗi khi đặt chân đến Việt Nam đều rất thích chiếc áo dài , nó đã trở thành một món quà lưu niêm đặc biệt về một đất nước giàu truyền thống, văn hóa đối với du khách nước ngoài.
Chiếc áo dài đã thực sự trở thành một biểu tượng hết sức cao quý, là nét đẹp văn hóa ,truyền thống của con người Việt Nam. Vì vậy, nhiêm vụ của thế hệ trẻ bây giờ là phải giữ gìn, bảo tồn giá trị văn hóa ấy.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Thị Ngọc
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)