Bài 1. Tôi đi học
Chia sẻ bởi Trần Hiểu Linh |
Ngày 11/10/2018 |
33
Chia sẻ tài liệu: Bài 1. Tôi đi học thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
I-Dân số thế giới ngày một tăng cao...
Dân số thế giới là tổng số người sống trên Trái Đất. Vào ngày 13 tháng 8 năm 2009, dân số trên Trái Đất được đo bởi Cục điều tra dân số của Mỹ là 6,777 tỉ người. Dân số thế giới bắt đầu tăng lên từ cuối giai đoạn của căn bệnh Cái chết đen (Black Death) hoành hành vào khoảng năm 1400. Cũng có một giai đoạn ngắn dân số giảm đi ở những thời gian khác bởi các dịch bệnh, chẳng hạn ở thế kỉ 17 . Thời gian dân số thế giới tăng nhanh nhất (hơn 1,8%) là vào khoảng thời kì những năm 1950 sau đó là một thời gian dài từ những năm 1960 cho tới 1970 (xem biểu đồ). Theo bản đồ dân số, dân số thế giới sẽ tiếp tục tăng cho tới những năm 2050. Vào năm 2008, sự gia tăng dân số thế giới đã giảm gần một nửa so kỉ lục là 2,2% một năm, đạt đến vào năm 1963. Số người được sinh ra mỗi năm vào khoảng 134 triệu người, sau khi đạt kỉ lục 163 triệu vào cuối những năm 1990. Tuy nhiên, chỉ khoảng 57 triệu người chết mỗi năm, và được dự đoán sẽ tăng lên 90 triệu người vào năm 2050. Kể từ khi số người sinh ra nhiều số người chết, dân số thế giới sẽ đạt ngưỡng 9 tỉ người vào năm 2040. Dân số thế giới đạt mức 7.000.000.000 người vào ngày 10 tháng 4 năm 2011. Tính đến tháng 7 năm 2013, dân số thế giới ước tính là 7.095.217.980 người.
Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học thuộc Đại học Washington và Liên Hợp Quốc đã chỉ ra, thế giới đang ngày một tăng cao, có khả năng sẽ đạt 10,9 tỷ người vào năm 2100, chứ không phải là 9 tỷ người như ước tính trước đó.Các chuyên gia đã sử dụng mô hình thống kê hiện đại để có thể đưa ra con số chính xác nhất dự đoán dân số thế giới. Hầu hết sự tăng trưởng được dự đoán sẽ đến từ khu vực châu Phi. Theo đó, dân số ở châu lục này sẽ có thể tăng từ 1 tỷ lên tới 4 tỷ người vào cuối thế kỷ này.
Dân số thế giới có thể đạt ngưỡng 10,9 tỷ người vào năm 2100.
Điều này là do các gia đình ở châu Phi muốn có nhiều con và họ cũng không sử dụng các biện pháp tránh thai .Các chuyên gia cũng cho biết, dân số ở các châu lục khác cũng không mấy thay đổi so với dự kiến, đặc biệt ở các khu vực như châu Âu, Bắc Mỹ, Mỹ Latinh - dân số duy trì khoảng 1 tỷ người. Dân số châu Á hiện đang ở mức 4,4 tỷ người, dự kiến sẽ đạt vào khoảng 5 tỷ vào năm 2050 và sau đó bắt đầu suy giảm.Dự đoán này còn dựa trên tuổi thọ và tỷ lệ sinh - hai yếu tố làm nên sự thay đổi khác biệt về dân số ở mỗi nước. Các nhà nghiên cứu cho rằng, để có thể giảm bớt sự gia tăng dân số, chúng ta có thể chú trọng hơn vào chương trình kế hoạch hóa gia đình và phổ biến rộng rãi hơn các biện pháp tránh thai. Nhà thống kê xã hội học Adrian Raftery - người tham gia nghiên cứu cho biết: "Đây thực sự là điều mà các nhà chính sách, nhà quản lý cần lưu tâm bởi lẽ, dân số tăng nhanh ở các nước kém phát triển, đang phát triển có thể tạo ra một loạt các thách thức. Điều này còn ảnh hưởng đến sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tăng tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tử vong ở trẻ em và tội phạm ngày càng tăng lên. Không chỉ vậy, chính phủ sẽ phải chịu thêm gánh nặng về cơ sở hạ tầng".
II- Hậu quả của việc tăng dân số
1.Sáu đặc điểm của Việt Nam liên quan đến vấn đề tăng dân số
Việt Nam đất chật, người đông: Với diện tích 33.000.000 km vuông, mật độ dân cư trung bình khoảng 230 người/km2, cao gấp 6 lần mật độ dân cư trung bình của thế giới và gấp 3 lần so với Châu Âu.
Phân bố dân cư không đều: 80%số dân sống trên 29% diện tích của đất nước. Miền núi chiếm 80% diện tích toàn quốc nhưng chỉ có 20% dân số sinh sống.
Diện tích canh tác/đầu người thấp: Bình quân là khoảng 0,1 ha đất canh tác cho một người, bình quân lương thực/đầu người năm 1996 là 301 kg chỉ hơn bình quân năm 1939 có 1kg là do diện tích canh tác ít nhưng dân số tăng quá nhanh, sản lượng lương thực tăng không tương xứng.
Thu nhập quốc dân cho đầu người còn thấp: Chúng ta mới đạt khoảng 300 đô la Mỹ cho mỗi người/năm, là một trong những
Dân số thế giới là tổng số người sống trên Trái Đất. Vào ngày 13 tháng 8 năm 2009, dân số trên Trái Đất được đo bởi Cục điều tra dân số của Mỹ là 6,777 tỉ người. Dân số thế giới bắt đầu tăng lên từ cuối giai đoạn của căn bệnh Cái chết đen (Black Death) hoành hành vào khoảng năm 1400. Cũng có một giai đoạn ngắn dân số giảm đi ở những thời gian khác bởi các dịch bệnh, chẳng hạn ở thế kỉ 17 . Thời gian dân số thế giới tăng nhanh nhất (hơn 1,8%) là vào khoảng thời kì những năm 1950 sau đó là một thời gian dài từ những năm 1960 cho tới 1970 (xem biểu đồ). Theo bản đồ dân số, dân số thế giới sẽ tiếp tục tăng cho tới những năm 2050. Vào năm 2008, sự gia tăng dân số thế giới đã giảm gần một nửa so kỉ lục là 2,2% một năm, đạt đến vào năm 1963. Số người được sinh ra mỗi năm vào khoảng 134 triệu người, sau khi đạt kỉ lục 163 triệu vào cuối những năm 1990. Tuy nhiên, chỉ khoảng 57 triệu người chết mỗi năm, và được dự đoán sẽ tăng lên 90 triệu người vào năm 2050. Kể từ khi số người sinh ra nhiều số người chết, dân số thế giới sẽ đạt ngưỡng 9 tỉ người vào năm 2040. Dân số thế giới đạt mức 7.000.000.000 người vào ngày 10 tháng 4 năm 2011. Tính đến tháng 7 năm 2013, dân số thế giới ước tính là 7.095.217.980 người.
Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học thuộc Đại học Washington và Liên Hợp Quốc đã chỉ ra, thế giới đang ngày một tăng cao, có khả năng sẽ đạt 10,9 tỷ người vào năm 2100, chứ không phải là 9 tỷ người như ước tính trước đó.Các chuyên gia đã sử dụng mô hình thống kê hiện đại để có thể đưa ra con số chính xác nhất dự đoán dân số thế giới. Hầu hết sự tăng trưởng được dự đoán sẽ đến từ khu vực châu Phi. Theo đó, dân số ở châu lục này sẽ có thể tăng từ 1 tỷ lên tới 4 tỷ người vào cuối thế kỷ này.
Dân số thế giới có thể đạt ngưỡng 10,9 tỷ người vào năm 2100.
Điều này là do các gia đình ở châu Phi muốn có nhiều con và họ cũng không sử dụng các biện pháp tránh thai .Các chuyên gia cũng cho biết, dân số ở các châu lục khác cũng không mấy thay đổi so với dự kiến, đặc biệt ở các khu vực như châu Âu, Bắc Mỹ, Mỹ Latinh - dân số duy trì khoảng 1 tỷ người. Dân số châu Á hiện đang ở mức 4,4 tỷ người, dự kiến sẽ đạt vào khoảng 5 tỷ vào năm 2050 và sau đó bắt đầu suy giảm.Dự đoán này còn dựa trên tuổi thọ và tỷ lệ sinh - hai yếu tố làm nên sự thay đổi khác biệt về dân số ở mỗi nước. Các nhà nghiên cứu cho rằng, để có thể giảm bớt sự gia tăng dân số, chúng ta có thể chú trọng hơn vào chương trình kế hoạch hóa gia đình và phổ biến rộng rãi hơn các biện pháp tránh thai. Nhà thống kê xã hội học Adrian Raftery - người tham gia nghiên cứu cho biết: "Đây thực sự là điều mà các nhà chính sách, nhà quản lý cần lưu tâm bởi lẽ, dân số tăng nhanh ở các nước kém phát triển, đang phát triển có thể tạo ra một loạt các thách thức. Điều này còn ảnh hưởng đến sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tăng tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tử vong ở trẻ em và tội phạm ngày càng tăng lên. Không chỉ vậy, chính phủ sẽ phải chịu thêm gánh nặng về cơ sở hạ tầng".
II- Hậu quả của việc tăng dân số
1.Sáu đặc điểm của Việt Nam liên quan đến vấn đề tăng dân số
Việt Nam đất chật, người đông: Với diện tích 33.000.000 km vuông, mật độ dân cư trung bình khoảng 230 người/km2, cao gấp 6 lần mật độ dân cư trung bình của thế giới và gấp 3 lần so với Châu Âu.
Phân bố dân cư không đều: 80%số dân sống trên 29% diện tích của đất nước. Miền núi chiếm 80% diện tích toàn quốc nhưng chỉ có 20% dân số sinh sống.
Diện tích canh tác/đầu người thấp: Bình quân là khoảng 0,1 ha đất canh tác cho một người, bình quân lương thực/đầu người năm 1996 là 301 kg chỉ hơn bình quân năm 1939 có 1kg là do diện tích canh tác ít nhưng dân số tăng quá nhanh, sản lượng lương thực tăng không tương xứng.
Thu nhập quốc dân cho đầu người còn thấp: Chúng ta mới đạt khoảng 300 đô la Mỹ cho mỗi người/năm, là một trong những
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Hiểu Linh
Dung lượng: 262,25KB|
Lượt tài: 1
Loại file: docx
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)