80ngayvongquanhthegioi

Chia sẻ bởi Tống Hoàng Linh | Ngày 08/05/2019 | 27

Chia sẻ tài liệu: 80ngayvongquanhthegioi thuộc Ngữ văn 9

Nội dung tài liệu:

Tác giả: Jules Verne
Chương
Chương
Chương
Chương
Chương
Chương
Chương
Chương
Chương
Chương
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
Vụ đánh cược
Theo dấu vết tên trộm
Lễ hiến sinh
Điều thú nhận
Tàu Tankadere
Những anh hề của ngài Batulcar
Đường xe lửa
Cuộc tấn công của dân da đỏ
Chặng cuối
Những giây phút sau cùng
Jules Verne

Chương 1 Vụ đánh cược




























Năm 1872, ngôi nhà mang biển số 7 đường Saville là nơi cư ngụ
của Phileas Fogg, một trong những hội viên lập dị và lỗi lạc nhất
thuộc câu lạc bộ Cải cách của thành phố Luân Đôn. Người ta không
biết nhiều về nhân vật kín đáo và lặng lẽ này. Ông gia nhập câu lạc
bộ Cải cách theo sự giới thiệu của Ngân hàng Anh em Baring, nơi
ông có một tài khoản tín dụng công khai. Có tiếng là một người rất
mực hào hoa phong nhã, ông Phileas Fogg lại thật giàu có. Nhưng
làm sao ông làm nên cơ nghiệp thì những người thông thạo tình
hình nhất cũng không biết được.
Ông có đi đây đi đó không? Có thể lắm bởi thỉnh thoảng, chỉ bằng
vài lời, ông vẫn nêu lên rất đúng lúc những tin tức lan truyền trong
câu lạc bộ về chuyện những khách du lịch mất tích hoặc lạc đường,
nhưng điều chắc chắn là từ nhiều năm nay ông không rời Luân
Đôn. Trò tiêu khiển độc nhất của ông là đọc báo và chơi bài uýt.
Phileas Fogg sống một mình trong ngôi nhà ở đường Saville, với
một người giúp việc. Ông dùng bữa tại Câu lạc bộ vào giờ giấc xác
định nghiêm ngặt, luôn luôn tại đúng cái bàn ăn đó, và rất trịnh
trọng. Tại nhà, ông đòi hỏi người giúp việc phải tuyệt đối đúng giờ.
Hôm đó, ngày 2 tháng mười, Phileas Fogg đã đuổi cổ người giúp
việc vì anh ta phạm phải lỗi lầm là mang cho ông nước cạo râu ở
nhiệt độ tám mươi bốn thay vì tám mươi sáu, do đó ông đang đợi
người thay thế. Anh ta phải trình diện ông giữa mười một giờ và
mười một giờ rưỡi.
Con người hào hoa phong nhã đó đang ngồi trong một chiếc ghế
bành đợi người ta gõ cửa.
Một người đàn ông tuổi trạc ba mươi bước vào và cúi chào.
- Anh là người Pháp và anh tên John phải không? - Phileas Fogg
hỏi.
- Jean, nếu ông vui lòng thưa ông, - Người mới tới đáp - Jean
Passepartout, một biệt danh được chứng thật bằng khả năng xoay
sở của tôi ở mọi nơi và mọi lúc. Tôi nghĩ mình là một con người
trung thực, thưa ông, nhưng nói gì thì nói, tôi đã qua nhiều nghề.
Đặc biệt tôi đã từng là người hát rong, người biểu diễn ngựa trong
gánh xiếc, nhưng từ năm năm nay, tôi làm bồi phòng tại Anh.
Nhưng giờ đây không có việc làm và được biết rằng ông là con
người tĩnh tại nhất của Vương quốc Anh, tôi đến đây với hy vọng
được sống một cuộc sống yên bình và quên đi cả cái tên
Passepartout kia.
- Passepartout nghe hợp với tôi lắm. - Ông Fogg trả lời - Tôi có
nhiều thông tin tốt về anh.
Đồng hồ anh mấy giờ rồi?
- Dạ, mười một giờ hai mươi hai phút, - Passepartout vừa nói vừa
rút từ cái túi con ở lưng quần của mình một chiếc đồng hồ quả quít
to tướng bằng bạc.
- Anh trễ bốn phút đấy. - Con người hào hoa phong nhã nói.
- Kể từ ngày thứ tư này, 2 tháng mười 1872, anh phục vụ tôi theo
những điều kiện mà anh đã biết.
Nói xong, Phileas Fogg đứng dậy, lấy mũ và đi ra. Passepartout ở
lại một mình trong ngôi nhà. Suốt cuộc nói chuyện, chàng trai đã
cẩn thận dò xét người chủ mới của mình. Ông hẳn phải ở độ tuổi
bốn mươi, với một khuôn mặt sang và đẹp, ông có mái tóc hoe
vàng và râu mép. Trầm lặng và điềm tĩnh, đó là mẫu đàn ông
không chê vào đâu được, không bao giờ gấp gáp và luôn luôn đúng
mực, không tự cho phép mình có một cử chỉ thừa nào.
Passepartout có một diện mạo đáng mến với một cái đầu tròn trịa,
tốt lành mà người ta vẫn thích được nhìn ngắm trên đôi vai một
người bạn. Anh cũng có một hệ thống cơ bắp chắc khỏe và một
mái tóc nâu không theo nếp.
Còn lại một mình, chàng trai bắt đầu xem xét ngôi nhà mà anh
thấy sạch sẽ, ngăn nắp, không hoa mỹ, được soi sáng và sưởi ấm
bằng khí đốt. Anh thích gian phòng dành cho anh, ở tầng hai. Phía
trên chiếc đồng hồ quả lắc, trên lò sưởi, một bản chỉ dẫn ghi rõ chi
tiết chương trình phục dịch của anh: trà và bánh mì nướng vào tám
giờ hai mươi ba phút, nước cho việc cạo râu vào chín giờ ba mươi
bảy phút, sửa sang đầu tóc vào mười giờ kém hai mươi, v.v...
Còn quần áo của ông chủ thì được sắp đặt rất tươm tất. Từng cái
quần, cái áo choàng, cái áo gi lê đều mang một số thứ tự ghi lại
trong một cuốn sổ chỉ rõ ngày nào mặc quần áo nào.
Tóm lại, ngôi nhà cho thấy một sự sung túc vượt trội..
- Ngôi nhà này là phần việc của mình đây. - Passepartout nhủ
thầm - Ông Fogg là một con người thích quanh quẩn trong nhà,
một cái máy đúng nghĩa, và mình phục vụ không chút khó chịu.
Khi Phileas Fogg tới Câu lạc bộ Cải cách, ông đi ngay vào phòng
ăn. Tại đấy, ông ngồi vào chiếc bàn quen thuộc nơi bộ đồ ăn của
ông đang đợi ông. Bữa ăn trưa của ông gồm một món khai vị, một
món cá hảo hạng, một món bò nướng tô điểm bằng nấm, một
chiếc bánh ngọt nhân mứt đại hoàng và một miếng phôma, kèm
theo mấy tách trà hảo hạng, được chọn riêng cho Câu lạc bộ.
Mười hai giờ bốn mươi bảy phút, con người hào hoa phong nhã
đứng dậy và đi về phía phòng khách lớn nơi một người giúp việc
trao cho ông tờ Thời báo, chưa rọc. Ông đọc tờ báo ngày này tới ba
giờ bốn mươi lăm, và tiếp đến, đọc tờ Lá Cờ tới giờ ăn tối. Bữa ăn
tối diễn ra trong những điều kiện như bữa ăn trưa, thêm “món
nước xốt Hoàng gia Anh”. Sau đó ông đọc tờ Thời sự buổi sáng, và
ít phút sau, nhiều hội viên Câu lạc bộ Cải cách bước vào phòng
khách. Đó là những người bạn chơi bài quen thuộc của ông Fogg,
say mê bài uýt như ông :
Kỹ sư Andrew Stuart, các ông giám đốc ngân hàng John Sullivan và
Samuel Fallentin, nhà sản xuất rượu bia Thomas Flanagan và
Gauthier Ralph, một trong các ủy viên điều hành Ngân hàng Anh
quốc, tất cả các nhân vật này đều giàu có và được mọi người kính
trọng. Ngay lúc ấy, các ông bắt đầu bàn về vụ trộm một số tiền là
năm mươi lăm ngàn bảng, vừa mới xảy ra tại Ngân hàng Anh quốc.
- Tôi hy vọng chúng ta sẽ tóm được tác giả vụ trộm thôi. - John
Sullivan nói.
- Nhiều thanh tra cảnh sát đã được điều tới khắp các cảng chính. -
Gaultier Ralph đáp.
- Người ta có đặc điểm nhận dạng của tên trộm không? - Một người
nào đó hỏi.
- Tờ Thời sự buổi sáng đoán chắc rằng đó là một con người hào hoa
phong nhã. - Phileas Fogg đáp, đầu nhô lên khỏi mớ báo chất đống
quanh ông.
Tưởng cũng nên lưu ý ở đây là ngân hàng dường như cực kỳ quan
tâm tới thái độ nghiêm túc của công chúng. Vàng, tiền và giấy bạc
đã được bày ra một cách thoải mái như vậy trên bàn của các thủ
quỹ..
Dầu sao, ngày hôm đó, một bó bạc đã biến mất vào lúc đóng cửa
các phòng làm việc.
Nhưng trong ngày 19 tháng chín, một con người hào hoa phong
nhã ăn mặc lịch sự, dáng vẻ thanh tú đã được để ý, đang đi đi lại
lại trong phòng chi trả. Đặc điểm nhận dạng của ông ta được gởi
ngay tới tất cả cảnh sát và thám tử của nước anh. Như người ta
nghĩ, sự kiện vặt này làm say mê cả Luân Đôn, người ta bàn tán về
nó khắp nơi, và đương nhiên cả ở Câu lạc bộ Cải Cách. Trong lúc
chơi bài, người chơi ai nấy không nói gì, nhưng giữa những ván bài,
câu chuyện lại tiếp tục càng sôi nổi hơn.
- Tôi quả quyết, - Andrew Stuart nói - rằng tên trộm có nhiều cơ
may thoát được.
- Coi nào, - Ralph đáp - hắn không thể lánh nạn tại một đất nước
nào cả.
- Trái đất rộng lớn chán.
- Xưa kia quả nó như vậy... - Phileas Fogg nói khe khẽ.
- Sao? Trái đất tự nhiên mà nhỏ đi à? - Andrew Stuart tiếp lời.
- Tất nhiên rồi, - Gauthier Ralph đáp - bởi người ta đi khắp trái đất
nhanh hơn mười lần cách đây một trăm năm.
- Chỉ trong tám mươi ngày. - Phileas Fogg nói.
- Quả nhiên rồi, các ông à, - John Sullivan xen vào - Đây là tính
toán do tờ Thời sự buổi sáng lập ra.
Từ Douvres tới Suez ngang qua Mont Cenis và Brindisi, tàu hỏa và
tàu thủy.... 7 ngày
Từ Suez tới Bombay, tàu thủy.... 13 ngày
Từ Bombay tới Calcutta, tàu hỏa... 3 ngày
Từ Calcutta tới Hong Kong, tàu thủy.... 13 ngày
Từ Hong Kong tới Yokohama, tàu thủy..... 6 ngày
Từ Yokohama tới San Francisco, tàu thủy... 22 ngày
Từ San Francisco tới New York, tàu hỏa... 7 ngày
Từ New York tới Douvres, tàu hỏa... 9 ngày
Tổng cộng 80 ngày
- Đúng, tám mươi ngày, - Andrew Stuart đồng tình - nhưng không
tính tới thời tiết xấu, những vụ đắm tàu, v.v....
- Tính hết mọi thứ. - Phileas Fogg vừa đáp vừa tiếp tục chơi.
- Về mặt lý thuyết, ông có lý, ông Fogg à, nhưng trong thực
hành... tôi muốn thấy ông ở đây cơ.
- Tùy ông thôi. Chúng ta cùng lên đường vậy.
- Lạy trời tránh cho tôi chuyện này. - Stuart kêu lên - Nhưng tôi
sẵn sàng đánh cuộc bốn ngàn bảng rằng chuyện đó không thể
được.
- Rất có thể là trái lại. - Ông Fogg đáp.
- Tôi đánh cuộc bốn ngàn bảng. - Andrew Stuart lập lại.
- Xong rồi. - Ông Fogg nói. - Tôi liều hai mươi ngàn bảng vậy.
- Hai mươi ngàn bảng! - John Sullivan kêu lên - Ông nói đùa!
- Một người Anh chân chính không nói đùa bao giờ. Tôi đánh cuộc
hai mươi ngàn bảng rằng tôi sẽ đi vòng quanh thế giới trong tám
mươi ngày hoặc ít hơn, tức là một ngàn chín trăm hai mươi phút.
Các ông có chấp nhận không?
- Chúng tôi chấp nhận. - Mọi người đồng thanh đáp.
- Được lắm. - Ông Fogg nói - Chuyến xe lửa từ Douvres khởi hành
vào lúc tám giờ bốn mươi lăm. Tôi sẽ đáp chuyến đó.
- Ngay tối nay à?
- Ngay tối nay. - Phileas Fogg đáp. - Vậy thì, - Ông vừa trả lời vừa
tham khảo một cuốn lịch bỏ túi - tôi sẽ phải trở về Luân Đôn trong
phòng khách Câu lạc bộ Cải cách vào ngày thứ bảy 21 tháng chạp,
lúc tám giờ bốn mươi lăm phút tối, nếu không hai mươi ngàn bảng
gởi anh em nhà Baring đương nhiên thuộc về các ông, thưa các
ông. Đây là tấm ngân phiếu ghi số tiền đó.
Một biên bản đánh cuộc được viết và ký ngay tức khắc bởi sáu
đương sự.
Bấy giờ đồng hồ điểm bảy giờ. Người ta đề nghị Phileas Fogg
ngừng chơi bài uýt để ông có thể chuẩn bị công việc của mình.
- Tôi luôn sẵn sàng! - Con người hào hoa phong nhã không bao giờ
chịu thoái lui đó dõng dạc đáp.
Bảy giờ hai mươi lăm, Phileas Fogg chào tạm biệt các bạn đồng sự
và về nhà..
- Passepartout! - Ông gọi - Trong mười phút nữa chúng ta sẽ lên
đường tới Douvres. Chúng ta sẽ đi vòng quanh thế giới.
- Vòng quanh thế giới? - Chàng trai thì thầm trong sự sững sờ.
- Trong tám mươi ngày. - Ông Fogg đáp - Chúng ta không được phí
phút nào.
- Nhưng còn rương?
- Không cần rương... Chỉ cần một túi xách.
Trong đó có hai cái áo sơ mi len, ba đôi vớ. Anh cũng vậy. Anh nên
có đôi giày cho tốt. Hãy lo chuẩn bị đi.
Passepartout rời khỏi phòng.
- Ái chà, cái vụ này mệt rồi đây. Vậy mà mình chỉ muốn yên thân!
Có phải anh đang dây vào một lão điên đấy không? Chuyến đi vòng
quanh thế giới! Tuy nhiên như cái máy, anh vẫn lo chuẩn bị để lên
đường.
Dầu sao, anh cũng thích thú lại được thấy nước Pháp. Tám giờ,
chuẩn bị xong cái túi xách khiêm tốn chứa các thứ cần thiết cho
ông chủ và chính mình, Passepartout trở lại chỗ ông Fogg lúc này
đã sẵn sàng. Ông kẹp trong tay cuốn sách Hướng dẫn của hãng
Bradshaw. Ông đón cái túi xách từ tay Passepartout, nhét vào đó
một bó giấy bạc dày cộm và trao lại cho anh.
- Hãy cẩn thận đấy, có hai mươi ngàn bảng trong ấy. - Ông nói.
Cái túi xách suýt rời khỏi tay chàng trai như thể hai mươi ngàn
bảng được làm bằng vàng và rất nặng.
Vậy là chủ tớ bước xuống và cánh cửa ngôi nhà được khóa hai
vòng. Một chiếc xe độc mã đưa họ ra nhà ga Charing - Cross nơi họ
phải có mặt vào lúc tám giờ hai mươi.
Ông Fogg và Passepartout bước vào phòng khách nhà ga. Năm
người ở Câu lạc bộ Cải cách đã có mặt ở đó để chúc họ thượng lộ
bình an.
Tại đây Phileas Fogg sai Passepartout lấy hai vé hạng nhất đi Paris.
Tám giờ bốn mươi, hai hành khách đã ngồi vào ngăn của họ và
năm phút sau đoàn tàu lên đường.
Đêm đen kịt, mưa lất phất. Đoàn xe lửa chưa qua khỏi Sydenham
thì Passepartout đã kêu lên tuyệt vọng.
- Chuyện gì vậy? - Ông Fogg hỏi.
- Vì hấp tấp, tôi đã quên tắt ngọn đèn khí trong phòng tôi..
- Vậy thì, chàng trai ạ, - Ông Fogg lạnh lùng đáp - nó sẽ cháy bằng
tiền lương của anh đấy.
Rời Luân Đôn, Phileas Fogg không ngờ đến tiếng vang ầm ĩ mà
chuyến đi của ông sẽ gây ra.
Tin tức về vụ đánh cuộc lan khắp nước Anh. Nói chung người ta cho
Phileas Fogg là kẻ gàn dở hoặc điên khùng. Một bài báo xuất hiện
trong Tập san hội Địa lý chứng minh một cách rõ ràng tính điên rồ
của việc làm. Muốn thành công trong dự định đó, người ta phải
chấp nhận một sự khớp nhau thần diệu của giờ đi và đến. Trên
những con tàu khách, người ta đã không phó mặc cho sóng gió và
sương mù là gì? Vậy mà chỉ cần một sự chậm trễ cũng đủ cho
chuỗi giao thông bị gãy đổ không sao chữa được. Bài báo gây tiếng
vang ầm ĩ và cổ phiếu của Phileas Fogg xuống thấp thảm hại.
Người ta biến ông Fogg thành một trị giá chứng khoán đã được
định giá tức thì trong giới doanh thương thành phố Luân Đôn.
Nhưng năm ngày sau ngày lên đường của ông, tiếp theo bài báo
đó, thị giá chứng khoán của ông tuột giảm.
Xem tiếp chương 2
[
Jules Verne
Chương 2 Theo dấu vết tên trộm
Bảy ngày sau ngày lên đường của ông Fogg, viên giám đốc Sở cảnh
sát nhận được bức điện tín sau đây, đánh đi từ Suez :
“Đang theo dõi tên trộm ngân hàng, Phileas Fogg. Hãy gởi ngay
lệnh bắt tới Bombay”. Fix, Thám tử.
Bức điện tín có tác dụng ngay tức khắc. ảnh của ông Fogg đang lưu
giữ tại Câu lạc bộ Cải cách giữa đám ảnh các đồng sự của ông được
xem xét. Nó tương ứng với dấu hiệu nhận dạng do cuộc điều tra
cung cấp. Người ta gợi lại những gì gọi là bí ẩn trong cuộc sống của
con người đó và điều có vẻ hiển nhiên là chuyến đi này không
ngoài mục đích đánh lạc hướng sự chú ý của các nhân viên Sở
Cảnh sát Anh.
Đây là một trong những tình huống đã xảy ra khi bức điện tín đó
được đánh đi. Ngày 9 tháng mười, tại Suez người ta đang chờ tàu
khách.
Mongolia, chuyến tàu nối liền Brindisi với Bombay qua kinh Suez
cập bến. Hai người đàn ông dạo bước trên bến tàu giữa đám đông
người bản xứ và người nước ngoài. Một người là viên chức tòa lãnh
sự của nước Anh, người kia nhỏ thó, gầy gò, vẻ bồn chồn, con mắt
lanh lợi lúc nào cũng nhấp nhổm không yên. Đó là Fix, một trong
những viên thám tử mà Sở cảnh sát đã điều tới nhiều thành phố
cảng sau vụ trộm tại Ngân hàng Anh quốc. Tay Fix này có nhiệm
vụ theo dõi tất cả những hành khách quá cảnh qua Suez, và nếu
thấy có người nào khả nghi thì bám sát trong khi chờ lệnh bắt
giam.
- Tôi thật sự không biết, với những dấu hiệu nhận dạng ông đã
nhận được, làm sao ông có thể nhận ra con người đó. - Ông lãnh
sự nói - Tên trộm giống như một người rất mực hào hoa phong
nhã.
- Thưa ông lãnh sự, - Fix đáp - những tên trộm siêu đẳng luôn
giống người lương thiện. Trong đời tôi đã bắt không ít tên như vậy
rồi. Miễn là tên trộm của tôi có mặt trên tàu, tôi xin trả lời với ông
rằng nó sẽ không thoát khỏi tay tôi.
Sau lời nói đó, ông lãnh sự trở về nhiệm sở.
Người ta thấy Fix không thiếu sự tự tin. Tuy nhiên bến tàu dần dần
trở nên nhộn nhịp. Thủy thủ, người môi giới, người khuân vác và
nông dân bản xứ đổ dồn về đây. Trong khi bước theo dòng người,
theo thói quen nghề nghiệp, Fix nhìn chăm chăm vào người đi
đường bằng một cái nhìn lướt nhanh.
Chà, Fix tự nhủ sau phút im lặng, nếu người chúng ta truy tìm theo
đường này và trên chiếc tàu này, hắn ta phải lên bờ tại cảng Suez
để tới những nước châu á thuộc địa của Hà Lan hoặc Pháp bằng
một con đường khác.
Fix không phải nghĩ ngợi lâu. Ngay sau đó người ta trông thấy cái
vỏ khổng lồ của tàu Mon-golia giữa hai bờ Kinh và đồng hồ điểm
mười một giờ khi tàu buông neo tại bến.
Hành khách khá đông. Vài người còn nán lại trên boong để ngắm
nhìn toàn cảnh ngoạn mục của thành phố, nhưng hầu hết đều lên
bờ.
Trong khi Fix đang xem xét kỹ tất cả những người đặt chân lên đất
liền, một người trong số đó đến bên ông, lễ phép hỏi ông có thể chỉ
giùm anh ta văn phòng Tòa Lãnh sự Anh ở đâu hay không. Cùng
lúc, người hành khách chìa ra một tờ hộ chiếu trên đó dĩ nhiên anh
muốn nhờ đóng dấu thị thực của Anh.
Theo bản năng, Fix chộp lấy nó và mở ra.
Nhưng nó suýt rơi khỏi tay ông: dấu hiệu nhận dạng ghi trên tờ hộ
chiếu tương ứng với dấu hiệu nhận dạng được cảnh sát thông báo.
- Tờ hộ chiếu này không phải của anh chứ? - Ông hỏi.
- Dạ không. - Người này trả lời - Đây là hộ chiếu của ông chủ tôi
hãy còn ở trên tàu.
- Nhưng điều cần thiết là đích thân ông ấy phải đến trình diện với
ông lãnh sự, ở chỗ kia, góc quảng trường.
- Vậy thì tôi sẽ đi tìm ông chủ của tôi.
Fix đi nhanh về phía Tòa Lãnh sự và yêu cầu được tiếp kiến.
- Thưa ông lãnh sự, - Ông nói không cần mào đầu - tôi có những
suy đoán vững chắc để tin rằng mình đã nhận ra kẻ chúng ta đang
tìm kiếm.
- Hay đấy, ông Fix. - Ông lãnh sự đáp - Tôi sẽ không hối tiếc khi
trông thấy bản mặt tên vô lại đó.
- Tôi nghĩ có thể khẳng định được rằng hộ chiếu của hắn sẽ hợp lệ,
nhưng tôi mong sao ông đừng cấp thị thực...
- Tại sao vậy? Tôi không có quyền từ chối.
- Nhưng tôi phải giữ người đó tại đây cho tới khi nào tôi nhận được
lệnh bắt giữ từ Luân Đôn.
- À! Đó là việc của ông, ông Fix à, không phải việc của tôi...
Ông lãnh sự không thể kết thúc câu nói. Quả nhiên người ta gõ cửa
văn phòng ông, và một người giúp việc đưa vào hai người lạ. Đúng
đó là ông chủ và người làm. Phileas Fogg xuất trình hộ chiếu nói
ngắn gọn yêu cầu ông lãnh sự vui lòng đóng dấu thị thực vào đó.
Ông Lãnh sự cầm tờ hộ chiếu và chăm chú đọc.
- Ông là Phileas Fogg? - Ông Lãnh sự hỏi.
- Dạ đúng, thưa ông. - Con người hào hoa phong nhã đáp.
- Còn người này?
- Đây là gia nhân của tôi. Một người Pháp tên là Passepartout.
- Ông từ Luân Đôn tới?
- Dạ.
- Và ông đi đâu?
- Bombay.
- Được rồi, thưa ông. Tuy nhiên ông biết rằng thủ tục thị thực này
đã trở nên vô ích...
- Tôi biết điều đó, thưa ông. - Phileas Fogg đáp - Nhưng tôi muốn
được chứng nhận bằng con dấu thị thực của ông rằng tôi đã đi qua
Suez.
Ông Lãnh sự đóng dấu vào tờ hộ chiếu sau khi đã ký tên và đề
ngày lên đó.
Ông Fogg nộp lệ phí thị thực, và sau một cái chào lạnh lùng, ông
bước ra với người giúp việc theo sau.
- Này, - Ông Lãnh sự kêu lên - ông ta có vẻ một con người phong
nhã tuyệt vời đó chứ!
- Nhưng ông có đồng ý là con người hào hoa phong nhã điềm tĩnh
đó giống hệt tên trộm mà tôi nhận được qua dấu hiệu nhận dạng
không. - Viên thám tử đáp lại.
- Tôi nhìn nhận điều đó, nhưng mà...
- Tôi sẽ biết chính xác ngay thôi. Tôi thấy anh người làm có vẻ ít bí
hiểm hơn ông chủ, tôi sẽ cạy họng anh ta.
Dứt lời, Fix bước ra và bắt đầu đi tìm Passepartout.
Khi rời tòa Lãnh sự, ông Fogg sai bảo người làm mấy việc và trở lại
tàu Mongolia. Về buồng mình, ông lấy ra quyển sổ ghi chép trong
đó ghi :
“Rời Luân Đôn, thứ tư, 2 tháng mười, 8g 45 chiều.
Tới Paris, thứ năm, 7g sáng.
Rời Paris, thứ năm 8g 40 sáng.
Tới Turin qua ngả Mont - Cenis, thứ 6, 4 tháng mười, 6g 45 sáng.
Rời Turin, thứ sáu, 7g 20 sáng.
Tới Brindisi, thứ bảy, 5 tháng mười, 4g chiều”.
Ông Fogg đã ghi những ngày tháng đó trên một bảng hành trình
sắp xếp thành nhiều cột chỉ rõ - từ ngày 2 tháng mười tới ngày 21
tháng chạp - ngày và tháng của tất cả những giai đoạn đã tính
trước, đến nỗi ông luôn biết mình tới sớm hơn hoặc chậm trễ.
Vậy là ngày hôm đó, ông ghi giờ tới Suez khớp với giờ đến theo
quy định, không chậm cũng không sớm.
- Này, anh bạn, - Fix vừa nói vừa đuổi theo Passepartout trên bến
tàu - anh ngắm cảnh đấy à?
- Đúng, nhưng chúng tôi đi nhanh đến nỗi tôi cứ tưởng mình đang
du lịch trong mơ. Chúng tôi đang có mặt tại Suez, ở châu Phi. Châu
Phi. - Passepartout lập lại - Tôi không thể nào tin được.
- Vậy anh đi gấp lắm à?
- Tôi thì không, nhưng ông chủ của tôi thì gấp. Nhân đây, tôi phải
mua vớ và áo sơ mi.
Chúng tôi lên đường không có hòm rương gì cả.
- Tôi sẽ đưa anh tới một cửa hàng bách hóa nơi anh sẽ tìm ra tất
cả những gì anh cần.
- Ông tử tế quá. - Passepartout nói, và anh lấy ra chiếc đồng hồ
quả quít - Cần nhất tôi phải tránh lỡ tàu. - Anh tiếp lời.
- Anh có đủ thì giờ mà. - Fix bảo - Chỉ mới trưa thôi.
Passepartout cau mày.
- Vậy chúng ta hãy đi đi nào. Đã chín giờ năm mươi hai phút rồi.
- Đồng hồ anh chạy chậm.
- Đồng hồ tôi chạy chậm à? Một chiếc đồng hồ gia truyền từ đời
ông cố tôi đấy. Nó không xê dịch tới năm phút mỗi năm.
- Tôi biết chuyện gì rồi. Anh đã giữ giờ Luân Đôn, vốn chậm hơn
giờ Suez khoảng hai tiếng.
Anh phải lo chỉnh đồng hồ anh vào buổi trưa ở từng nước đi qua.
- Tôi, động chạm vào chiếc đồng hồ của mình à, - Passepartout kêu
lên - Không đời nào!
Chập sau, Fix lại gợi chuyện và nói :
- Vậy là anh và ông chủ của anh đã vội vã rời Luân Đôn phải
không?
- Đúng vậy! Ngày thứ tư vừa qua, vào lúc tám giờ tối, trái với mọi
thói quen của mình, ông Fogg từ Câu lạc bộ trở về, và bốn mươi
lăm phút sau, chúng tôi lên đường.
- Nhưng ông chủ của anh đi đâu?
- Ông ấy đi vòng quanh thế giới.
- Vòng quanh thế giới à?
- Đúng, trong tám mươi ngày! Một trò cá cược.
- Đây là một con người độc đáo, đương nhiên rồi. Ông ấy giàu có
chứ?
- Tất nhiên. Ông ấy mang theo một món tiền lớn bằng giấy bạc mới
cáu cạnh. Và ông không hề tiết kiệm tiền ở dọc đường. Này, ông ấy
đã hứa một món tiền thưởng cho anh thợ máy của tàu Mongolia
nếu chúng tôi tới Bombay trước giờ đấy.
- Và anh biết ông ấy từ lâu rồi chớ, ông chủ của anh ấy?
- Tôi, - Passepartout đáp - tôi vào làm cho ông ấy ngay ngày chúng
tôi lên đường.
Người ta dễ dàng tưởng tượng ra những câu trả lời đó đã gây ra
hiệu quả gì trong đầu óc viên thanh tra cảnh sát. Tất cả làm cho
ông vững tin hơn trong những suy đoán của mình.
Giữa lúc đó, hai người đã tới cửa hàng bách hóa. Fix để cho anh
bạn lo mua hàng tại đây và hối hả trở lại tòa Lãnh sự.
- Thưa ông, - Ông nói với ông Lãnh sự - điều tôi tin chắc quả không
sai, tôi phải bắt tên tội phạm này. Hắn làm ra vẻ một con người kỳ
quặc muốn đi vòng quanh thế giới trong tám mươi ngày.
- Ông không lầm đó chứ? Tại sao tên trộm đó cố tình cho người ta
thấy, bằng một con dấu thị thực, việc hắn đi ngang qua Suez?
- Tôi không biết. - Fix đáp - Đó cũng là một chi tiết. Tôi sẽ đánh
điện về Luân Đôn yêu cầu gởi một lệnh bắt tới Bombay, rồi đáp tàu
Mongolia, và tại đó, trên đất Ấn Độ, tôi sẽ đến bắt chuyện với hắn
một cách lễ độ với lệnh bắt trong tay.
Dứt lời, viên thám tử chào từ biệt và tới bàn điện thoại. Một khắc
đồng hồ sau đó, tay xách một túi hành lý gọn nhẹ, ông bước lên
tàu Mon-golia và sau đó con tàu xả hết tốc lực trên sóng nước biển
Đỏ.
Trên tàu Mongolia ai nấy đều thoải mái.
Vào bữa ăn sáng, bữa ăn trưa, bữa ăn tối và bữa ăn đêm, những
chiếc bàn nặng trĩu xuống bởi những món ăn ngon lành nhất.
Người ta chơi nhạc, người ta còn khiêu vũ nữa.
Trong thời gian đó, Phileas làm gì? Người ta ít khi thấy ông xuất
hiện trên boong. Ông không lo ngại gì về biển Đỏ và những bờ bãi
của nó cho lắm.
Về phần Passepartout thì chuyến đi này làm anh bực mình nhất.
Được ăn uống phả phê, ở nơi sang trọng, anh ngắm cảnh lạ và tin
chắc rằng tất cả sự ngông cuồng này rồi sẽ phải kết thúc tại
Bombay thôi.
Anh không khỏi vui mừng khi gặp Fix trên boong vào hôm sau
ngày rời Suez.
- Rất vui gặp lại ông, thưa ông. Ông đi Bombay đó chứ? - Anh hỏi..
- Thì cũng như anh thôi. Tôi là nhân viên của công ty Bán đảo.
- Xứ Ấn Độ này lạ thật, ông không thấy sao?
- Lạ lắm chứ. Ở đây có nhiều nhà thờ Hồi giáo, miếu mạo, thầy tu
khổ hạnh, cọp beo...
- Mong anh có thì giờ tham quan đất nước này.
- Tôi cũng mong vậy, ông Fix à.
- Còn ông Fogg, ông ấy khỏe chứ? Fix hỏi bằng một giọng rất tự
nhiên.
- Rất khỏe, thưa ông. Tôi cũng vậy. Tôi ăn uống như chằn tinh.
Nhờ không khí ở biển đấy.
- Còn ông chủ của anh, tôi không bao giờ thấy ông ấy...
- Không đời nào. Ông ấy không có tính tò mò.
- Anh biết không, anh Passepartout, chuyến đi giả định là vòng
quanh thế giới trong tám mươi ngày rất có thể che giấu một điều bí
mật nào đó.
- Quả thật tôi chẳng biết gì cả và tôi xin thú thật với ông là tôi
chẳng thèm phí tới nửa đồng curon để biết điều ấy.
Kể từ lần gặp gỡ đó, viên Thanh tra cảnh sát thường mời chàng trai
một ly uýt ki hoặc một ly bia và chàng trai trung hậu luôn mời đáp
lại để khỏi mang nợ.
Anh chàng thấy kể ra ông Fix này cũng là một tay hào hoa phong
nhã rất đứng đắn.
Trong khi đó, con tàu vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Ngày 14, sớm
hơn mười lăm tiếng đồng hồ, tàu Mongolia ghé cảng Aden để lấy
thêm nhiên liệu.
Sáu giờ, chân vịt tàu Mongolia bắt đầu quay.
Biển Ấn Độ rất thuận lợi. Gió từ hướng tây bắc thổi tới và buồm
giương lên để tiếp sức cho hơi nước.
Ngày chủ nhật, 20 tháng mười, vào khoảng trưa, người ta đã thấy
bờ biển Ấn Độ. Hai tiếng đồng hồ sau, người hoa tiêu lên tàu
Mongolia và sau đó con tàu chạy vào vũng tàu hình thành từ năm
hòn đảo. Lúc bốn giờ rưỡi tàu cặp vào cảng Bombay.
Lẽ ra tàu Mongolia phải tới Bombay vào ngày 22 tháng mười,
nhưng nó đã tới vào ngày 20.
Như vậy là Phileas Fogg đã có thể ghi một cách có phương pháp
vào phần cột có lợi là hai ngày...
Xem tiếp chương 3
Jules Verne
Chương 3 Lễ hiến sinh
Hành khách tàu Mongolia lên bờ tại Bombay vào khoảng bốn giờ
rưỡi chiều, và chuyến xe lửa đi Calcutta khởi hành vào đúng tám
giờ.
Ông Fogg từ biệt những người bạn chơi bài, rời tàu, dặn kỹ người
giúp việc về các món cần mua, rồi ông đi về phía văn phòng thị
thực hộ chiếu.
Ông không màng tới việc đi thăm bất kỳ một kỳ quan nào của
thành phố Bombay, cả Tòa Thị chính, Thư viện lẫn giáo đường.
Không. Không nơi nào cả.
Bước ra khỏi văn phòng, ông tới nhà ga và gọi bữa ăn tối.
Trong số các món ăn, người đầu bếp giới thiệu với ông món đặc
sản ragu thỏ nấu rượu chát và Phileas Fogg đồng ý; Tuy nhiên mặc
dầu có thêm nước sốt gia vị, ông vẫn thấy món ăn tồi quá.
Về phần Fix, ông ta chạy tới sở cảnh sát Bombay. Không hiểu
người ta đã nhận được lệnh bắt từ Luân Đôn gởi tới chưa? Người ta
không nhận được gì.
Viên thám tử rất đỗi bối rối. Tin rằng Phileas Fogg đang lưu lại
thành phố, ông quyết không để sẩy tên vô lại bí hiểm này.
Mua xong mấy chiếc sơ mi và vớ ngắn, Passepartout dạo bước trên
các con đường của thành phố Bombay. Đúng vào ngày hôm đó,
người ta cử hành lễ hội cacnavan theo truyền thống tôn giáo với
những đám rước và những trò tiêu khiển trong đó xuất hiện các vũ
nữ Ấn Độ mặc vải the dệt hoa vàng và bạc, múa theo tiếng đàn
violes.
Sau khi ngắm cảnh tượng đó, Passepartout thả bộ về phía nhà ga,
khi đi qua ngôi đền Malebar - Hill tôn nghiêm, anh nảy ý định vào
thăm.
Tuy nhiên anh không biết hai điều: thứ nhất một số ngôi đền thuộc
đạo Hindu cấm người theo đạo Cơ đốc không được vào, và tiếp
theo là chính tín đồ cũng không được vào đó nếu không bỏ giày
dép ngoài cửa.
Bây giờ chàng trai đã vào đó, hoàn toàn ngu ngơ, và khi đang mải
chiêm ngưỡng những đường nét trang trí rực rỡ của ngôi đền, bất
ngờ anh bị quật ngã nhào trên những tấm đá lát linh thiêng.
Ba nhà sư, ánh mắt đầy giận dữ, đang xông vào anh, lột phăng
giày và vớ ngắn của anh, vừa đánh anh túi bụi vừa gào la ầm ĩ.
Chàng trai Pháp, vốn khỏe mạnh, vùng vẫy kịch liệt để thoát thân
và chạy ào ra khỏi ngôi đền. Đến tám giờ kém năm, vài phút trước
giờ xe lửa chạy, Passepartout tới nhà ga, đầu trần, chân trần, cái
gói đựng các thứ vừa mua cũng mất tiêu trong cuộc ẩu đả.
Fix đang đứng đó, trên sân ga. Đi theo lão Fogg tới nhà ga, ông
biết tên trộm của mình sắp rời Bombay. Tức thì ông quyết định đi
theo hắn, nhưng giờ ông đang nghe Passepartout kể lại chuyến
phiêu lưu của mình.
- Tôi mong điều đó sẽ không xảy ra với anh nữa. - Phileas Fogg chỉ
nói có vậy và tìm chỗ ngồi trong toa. Chàng trai đáng thương, chân
không, tiu nghỉu bước theo, không nói tiếng nào.
Còn Fix, ông đã đổi ý.
Mình ở lại, ông nhủ thầm. Đây là một vụ phạm pháp trên lãnh thổ
Ấn Độ...
Mình tóm được hắn rồi đây.
Đầu máy thét lên một hồi còi inh ỏi và đoàn xe lửa biến mất trong
đêm tối.
Passepartout ngồi chung ngăn với ông chủ mình. Một nhân vật thứ
ba ngồi ở góc đối diện.
Đó là thiếu tướng lữ đoàn trưởng, ngài Francis Cromarty, một trong
những người bạn chơi bài của ông Fogg trong chuyến vượt biển từ
Suez tới Bombay, ông đang trở về với đoàn quân của mình đóng
gần Bénarès. Phileas Fogg không giấu ngài Cromarty về kế hoạch
du lịch vòng quanh thế giới của mình. Ngài Cromarty chỉ thấy trong
vụ đánh cuộc này một sự ngông cuồng sẽ chẳng đi tới đâu.
Một giờ sau khi rời Bombay, qua khỏi những cây cầu cạn, xe lửa
băng qua đảo Salcette, chạy trên lục địa và chui vào những dãy núi
bazan với những đỉnh cao phủ đầy tuyết.
Vào buổi trưa, xe lửa dừng tại Burhampour, Passepartout mua
được một đôi giày hàm ếch có gắn hột trai với giá đắt và anh lấy
làm hãnh diện khi mang chúng.
Giờ đây khi xe lửa xả hết tốc lực chạy xuyên qua Ấn Độ, trong đầu
chàng trai đã có sự thay đổi hoàn toàn. Bản tính phiêu lưu của
những năm tháng trẻ tuổi nhanh chóng trở về, và anh bắt đầu tin
rằng vụ đánh cuộc của ông chủ anh là thật. Cho nên anh lo lắng
với những sự chậm trễ có thể xảy ra và tính đi tính lại những ngày
đã trôi qua đồng thời qui lỗi cho chiếc xe lửa chạy chậm rì. Vào
buổi chiều, xe lửa chạy vào các đường đèo trên dãy núi Sutpour.
Tám giờ sáng ngày hôm sau, 22 tháng mười, xe lửa bất thần dừng
lại giữa một cánh rừng thưa, ven rừng có vài căn nhà gỗ rộng hiên
và những túp lều lụp xụp.
- Đề nghị tất cả hành khách xuống xe! - Người cầm lái hét to.
Phileas Fogg nhìn ngài Francis tỏ vẻ ngỡ ngàng không hiểu tại sao
xe lửa bỗng dừng lại.
Sau khi nắm được tình hình, Passepartout nói :
- Thưa ngài, đường sắt tới đây là hết rồi. Xe lửa không tiếp tục
chạy được nữa.
- Sao?
- Đường chưa làm xong. Nó sẽ tiếp tục khoảng năm mươi dặm nữa.
- Nhưng báo chí đã loan tin là con đường đã được mở hoàn toàn rồi
cơ mà. - Thiếu tướng lữ đoàn trưởng nói.
- Các ông bán vé từ Bombay tới Calcutta à?
- Ông Fogg hỏi người cầm lái.
- Đương nhiên rồi. - Ông này đáp lại - Nhưng mọi hành khách đều
biết rằng họ phải tự lo liệu để được chuyển từ đây tới Allahabad.
Ngài Francis Cromarty nổi giận. Passepartout thì sẵn sàng nện chết
người cầm lái bất lực. Anh không dám nhìn ông chủ.
- Ngài Francis, - Ông Fogg bình tĩnh nói - nếu ngài đồng ý, chúng
ta sẽ tìm ra một cách nào đó để tới Allahabad.
- Ông Fogg, sự chậm trễ này có hại cho quyền lợi của ông...
- Ồ, tôi biết một trở ngại nào đó sớm hay muộn gì cũng nảy sinh
trên đường đi của tôi. Vậy mà không có gì tổn hại cả. Tôi dư được
hai ngày. Có một chiếc tàu rời Calcutta để đi Hong Kong vào trưa
ngày 25. Chúng ta sẽ tới Calcutta kịp thôi.
Không có gì phải bàn với một câu trả lời có một sự tin chắc như
vậy. Hầu hết hành khách đều biết đoạn đường đứt quãng này, họ
chiếm lấy những phương tiện chuyên chở mà địa phương sẵn có:
xe bò, cáng, ngựa giống nhỏ v.v...
Passepartout khám phá ra một điều.
- Thưa ông, - Anh nói - tôi nghĩ mình đã tìm ra một phương tiện
chuyên chở.
- Phương tiện gì?
- Một con voi. Nó thuộc về một người Ấn Độ ở cách đây một trăm
bước.
- Chúng ta hãy đến xem nó đi. - Ông Fogg đáp.
Năm phút sau, ba người hành khách của chúng ta tới một căn lều
nằm sát bên một vuông đất vây kín bằng những hàng rào cao,
trong đó có một con voi.
Kiouni, tên con vật, có thể đi nhanh trong suốt một thời gian dài,
và Phileas Fogg quyết định sử dụng nó, nhưng người chủ Ấn Độ dứt
khoát từ chối.
Fogg cố nài và đề nghị một giá tiền thuê khổng lồ, mười đồng bảng
mỗi giờ.
Từ chối. Hai chục đồng bảng? Vẫn từ chối. Giá cứ tiếp tục tăng
nhưng người đàn ông không dễ bị cám dỗ bởi tại Ấn Độ voi rất
hiếm.
Bấy giờ Phileas Fogg đề nghị với người chủ là ông sẽ mua con vật
của hắn với một món tiền lớn. Chỉ cần tới giá hai ngàn bảng, người
Ấn Độ đã xiêu lòng.
Vụ việc kết thúc, vấn đề là tìm ra một người dẫn đường. Một người
Pac-xi trẻ tuổi, mặt mày có vẻ thông minh, tới xin việc. Ông Fogg
hứa với anh một món tiền thù lao hậu hĩ, có thể làm tăng trí thông
minh của anh gấp bội. Con voi được trang bị không chút chậm trễ.
Anh chàng Pac-xi biết rõ nghề quản tượng của mình. Anh phủ một
tấm vải lên lưng voi và bố trí hai chiếc ghế yên không mấy tiện
nghi ở hai bên cạnh sườn.
Ngài Francis ngồi trong một chiếc, và Phileas Fogg trong chiếc kia.
Passepartout ngồi trên tấm vải phủ bỏ thõng hai chân hai bên, còn
anh chàng Pac-xi ngồi ngất nghểu trên cổ con voi. Lương thực chất
trong một cái túi lớn.
Vào lúc chín giờ, đoàn người và vật tiến sâu vào rừng cọ dày đặc.
Anh chàng người Pac-xi, vốn rất quen với vùng này, cho rằng sẽ
được lợi hai chục ngàn dặm khi đi đường tắt qua rừng, và mọi
người phó thác vào anh.
Phileas Fogg và ngài Francis ngồi khuất tới cổ trong chiếc ghế yên
của họ, họ bị lắc mạnh bởi bước chân voi đi mau, nhưng họ chấp
nhận với vẻ phớt tỉnh Ăng lê không ai bì kịp. Còn Passepartout, khi
thì anh phóng tới trước khi thì anh ngả người ra sau trên mông voi,
anh lướt tới lướt lui như một anh hề trên tấm ván nhún.
Tám giờ tối, hành khách dừng lại dưới triền dốc phía bắc của dãy
Vindhias trong một ngôi nhà gỗ đã đổ nát. Họ đã đi được nửa đoạn
đường.
Đêm lạnh giá. Anh chàng người Pac-xi nhóm một đống lửa và hành
khách ăn tối với những thức ăn trữ sẵn, rồi tất cả lặng im.
Khi mọi người ngủ, chỉ có người dẫn đường thức bên con voi.
Hôm sau người ta lại lên đường vào sáng sớm. Kiouni đã tìm lại
được dáng đi nhanh nhẹn.
Vào khoảng trưa, người ta dừng lại dưới bóng một cây chuối và
khen trái của nó hết lời. Người dẫn đường tránh những thôn xóm
và khi chuyến đi chừng như sắp hoàn tất, tốt đẹp thì bỗng đâu con
voi tỏ vài dấu hiệu lo ngại và bất thần đứng lại.
Anh chàng người Pac-xi cột voi lại, đi sâu vào rừng cây phát.
Khi xuất hiện trở lại, anh nói :
- Một đám rước của người Bà-la-môn đang đi về phía này. Nếu
được, chúng ta hãy tránh đừng để ai trông thấy.
Anh dẫn con voi vào khuất sau các lùm cây và dặn dò khách đừng
đặt chân xuống đất. Cành lá đan dày sẽ giấu kín họ. Những điệu
hát đơn điệu hòa lẫn với tiếng trống và tiếng chũm chọe vọng tới
gần. Sau đó, phần đầu đám rước xuất hiện cách chừng năm mươi
bước.
ở hàng đầu, các giáo sĩ đang bước tới, họ đội mũ lễ và áo thụng lòe
loẹt. Họ được vây quanh bởi đàn ông, đàn bà và trẻ con đang ê a
đọc một bài kinh ảo não. Sau họ, trên một chiếc xe tang người ta
thấy một pho tượng gớm ghiếc được hai cặp bò u phủ kín kéo đi.
Pho tượng có bốn cánh tay, thân hình màu đỏ sẫm, lưỡi lè dài.
Cổ đeo một cái vòng kết bằng những chiếc đầu lâu, thắt lưng đeo
một dây nịt kết bằng những bàn tay bị chặt đứt. Nó đứng trên một
người khổng lồ bị quật ngã, không có đầu.
- Nữ thần Kali. - Ngài Francis Cromarty thì thầm.
Quanh pho tượng một nhóm thầy tu khổ hạnh đang cựa quậy rối rít
người họ đầy những vết rạch há miệng. Sau chiếc xe tang, nhiều
người Bà-la-môn đang lôi theo một người phụ nữ da trắng trẻ tuổi.
Nàng mặc một chiếc áo muxơlin dài dệt kim tuyến, người nàng phủ
đầy những món nữ trang lộng lẫy. Bước theo sau người phụ nữ trẻ
tuổi đó là những vệ sĩ, võ trang bằng kiếm trần và súng ngắn nòng
dài, đang khiêng một cái cáng trên đó có thi thể một ông g
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Tống Hoàng Linh
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)