Van te
Chia sẻ bởi I D Gunny |
Ngày 26/04/2019 |
47
Chia sẻ tài liệu: van te thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
Trên bầu trời văn chương Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu như ngôi sao sáng càng nhìn càng sáng. Văn chương ông sáng ngời đạo lí ở đời và lấp lánh ánh sáng của tư tưởng yêu nước. Ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm bất hủ như: "Lục Vân Tiên", "Ngư tiều vấn đáp y thuật", nhiều bài thơ, bài văn tế… Nổi tiếng và gây xúc động nhất là "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". ở bài văn này, lần đầu tiên, hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được coi như "một phát hiện mới, nhà thơ dành cho họ vị trí chưa từng có trong văn chương"; họ trở thành nhân vật chính - anh hùng của thời đại.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu sáng tác bài văn tế theo thể phú Đường luật (phú cận thể), một thể loại dùng trong tang ma phúng điếu với nội dung chủ yếu là ngợi ca công đức những người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thể kỉ XIX. Có lẽ, nhân vật người nghĩa sĩ hi sinh vì nước có tầm cỡ lớn lao, đáng kính phục… thích hợp với một hình thức diễn đạt tiếc thương và trang trọng như vậy?
ở phần lung khởi (phần mở đầu). Nguyễn Đình Chiểu đã nói về thời cuộc, khái quát về cuộc đời nhân vật. Trong câu mở đầu "Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ" đối nhau một cách hoàn chỉnh, diễn tả hai nội dung của thời đại rất cụ thể: giặc xâm lược, có vũ khí hiện đại, dân ta chống xâm lược, chỉ bằng lòng yêu nước. Người nghĩa sĩ đã thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc trong bối cảnh như thế. Câu văn như báo trước số phận éo le, báo trước sự hi sinh của nhân vật là tất yếu. Cho nên "Mười năm công vỡ ruộng", ít ai biết đến họ. thế mà chỉ "một trận nghĩa đánh Tây" - "tuy là mất", là chết - danh tiếng họ đã "vang như mõ". Từ những con người bình thường sống sau luỹ tre, rặng dừa, mái lá…, họ vụt trở thành nổi tiếng, vì nghĩa lớn mà hi sinh. Và họ đã trở thành những anh hùng nghĩa sĩ của thời đại đau thương và anh dũng.
Lời ca ngợi họ, bắt đầu từ một cuộc sống lao động lặng thầm, cực khổ đến một cuộc đời chiến đấu anh dũng, vẻ vang. Cuộc sống lao động vất vả trong đời họ, được nhà văn thâu tóm trong hai câu thích thực mở đầu khá trọn vẹn: "Côi cút làm ăn - Toan lo nghèo khó". Hai nét bản chất ấy được triển khai làm rõ hơn ở những chi tiết giản dị, cụ thể, mộc mạc nhưng tiêu biểu, chọn lọc:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cơ mắt chưa từng ngó.
ở đây có hai chi tiết: những cái họ biết, họ quen và những cái họ chưa quen, chưng từng ngó. Với hai loại chi tiết này, có thể kết luận rằng: họ chỉ là những người nông dân nghèo khổ, cần cù, gắn bó với làng quê thanh bình, chưa hề biết việc đao binh, chiến trận.
Cho nên, khi giặc Pháp kéo tới với "tàu chiếc, tàu đồng", họ đã phải trải qua một tâm trạng lo âu, phấp phỏng. Họ "trông tin quan như trời hạn trông mưa". Và họ đã thất vọng vì đã "hơn mươi tháng", triều đình vẫn không thực hiện trách nhiệm cứu dân cứu nước vốn là trách nhiệm của vua, quan. Họ đã bị bỏ rơi!
Sống trong vùng đất giặc chiếm đóng "mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm", họ căm ghét "thói mọi" một cách cảm tính, tự nhiên "như nhà nông ghét cỏ". Nỗi căm ghét ngày một lớn lên trước sự nghênh ngang khiêu khích của những "bòng bong che trắng lốp", những "ống khói chạy đen xì" trông đến nhức mắt. Họ đã muốn "tới ăn gan", muốn "ra cắn cổ", giết và xóa sạch lũ giặc Lang Sa.
Bị triều đình bỏ rơi trong vùng đất giặc chiếm đóng, họ đã ý thức được vai trò của cá nhân mình và ý thức được trách nhiệm đối với nền độc lập của Tổ quốc. Tổ quốc (một mối xa thư đồ sộ) và chân lí độc lập đã được khẳng định (hai vầng nhật nguyệt chói lòa) không thể bị xâm phạm như một chốn không người. Họ "há để ai chém rắn đuổi hươu". Họ "đâu dung lũ treo dê bán chó". Triều đình không đánh giặc thì họ phải nhận lấy nghĩa vụ thiêng liêng này. Ra trận đánh giặc đối với họ là việc tự nguyện hoàn toàn.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu sáng tác bài văn tế theo thể phú Đường luật (phú cận thể), một thể loại dùng trong tang ma phúng điếu với nội dung chủ yếu là ngợi ca công đức những người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thể kỉ XIX. Có lẽ, nhân vật người nghĩa sĩ hi sinh vì nước có tầm cỡ lớn lao, đáng kính phục… thích hợp với một hình thức diễn đạt tiếc thương và trang trọng như vậy?
ở phần lung khởi (phần mở đầu). Nguyễn Đình Chiểu đã nói về thời cuộc, khái quát về cuộc đời nhân vật. Trong câu mở đầu "Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ" đối nhau một cách hoàn chỉnh, diễn tả hai nội dung của thời đại rất cụ thể: giặc xâm lược, có vũ khí hiện đại, dân ta chống xâm lược, chỉ bằng lòng yêu nước. Người nghĩa sĩ đã thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc trong bối cảnh như thế. Câu văn như báo trước số phận éo le, báo trước sự hi sinh của nhân vật là tất yếu. Cho nên "Mười năm công vỡ ruộng", ít ai biết đến họ. thế mà chỉ "một trận nghĩa đánh Tây" - "tuy là mất", là chết - danh tiếng họ đã "vang như mõ". Từ những con người bình thường sống sau luỹ tre, rặng dừa, mái lá…, họ vụt trở thành nổi tiếng, vì nghĩa lớn mà hi sinh. Và họ đã trở thành những anh hùng nghĩa sĩ của thời đại đau thương và anh dũng.
Lời ca ngợi họ, bắt đầu từ một cuộc sống lao động lặng thầm, cực khổ đến một cuộc đời chiến đấu anh dũng, vẻ vang. Cuộc sống lao động vất vả trong đời họ, được nhà văn thâu tóm trong hai câu thích thực mở đầu khá trọn vẹn: "Côi cút làm ăn - Toan lo nghèo khó". Hai nét bản chất ấy được triển khai làm rõ hơn ở những chi tiết giản dị, cụ thể, mộc mạc nhưng tiêu biểu, chọn lọc:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cơ mắt chưa từng ngó.
ở đây có hai chi tiết: những cái họ biết, họ quen và những cái họ chưa quen, chưng từng ngó. Với hai loại chi tiết này, có thể kết luận rằng: họ chỉ là những người nông dân nghèo khổ, cần cù, gắn bó với làng quê thanh bình, chưa hề biết việc đao binh, chiến trận.
Cho nên, khi giặc Pháp kéo tới với "tàu chiếc, tàu đồng", họ đã phải trải qua một tâm trạng lo âu, phấp phỏng. Họ "trông tin quan như trời hạn trông mưa". Và họ đã thất vọng vì đã "hơn mươi tháng", triều đình vẫn không thực hiện trách nhiệm cứu dân cứu nước vốn là trách nhiệm của vua, quan. Họ đã bị bỏ rơi!
Sống trong vùng đất giặc chiếm đóng "mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm", họ căm ghét "thói mọi" một cách cảm tính, tự nhiên "như nhà nông ghét cỏ". Nỗi căm ghét ngày một lớn lên trước sự nghênh ngang khiêu khích của những "bòng bong che trắng lốp", những "ống khói chạy đen xì" trông đến nhức mắt. Họ đã muốn "tới ăn gan", muốn "ra cắn cổ", giết và xóa sạch lũ giặc Lang Sa.
Bị triều đình bỏ rơi trong vùng đất giặc chiếm đóng, họ đã ý thức được vai trò của cá nhân mình và ý thức được trách nhiệm đối với nền độc lập của Tổ quốc. Tổ quốc (một mối xa thư đồ sộ) và chân lí độc lập đã được khẳng định (hai vầng nhật nguyệt chói lòa) không thể bị xâm phạm như một chốn không người. Họ "há để ai chém rắn đuổi hươu". Họ "đâu dung lũ treo dê bán chó". Triều đình không đánh giặc thì họ phải nhận lấy nghĩa vụ thiêng liêng này. Ra trận đánh giặc đối với họ là việc tự nguyện hoàn toàn.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: I D Gunny
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)