Van minh ai cap
Chia sẻ bởi Nguyễn Đăng Trình |
Ngày 27/04/2019 |
81
Chia sẻ tài liệu: Van minh ai cap thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
C. Văn minh Arập.
I. Sơ lược về lịch sử Arập.
Tình hình bán đảo Arập trước khi lập nước.
Sự thành lập và diệt vong của nhà nước Arập.
II. Đạo Hồi.
III. Văn học nghệ thuật, khoa học, giáo dục.
Văn học.
Nghệ thuật.
Khoa học tự nhiên: Toán học, Thiên văn học, Địa lí học, Vật lí học, Hóa học, Sinh vật học và Y học.
Giáo dục.
Arập là bán đảo lớn nhất thế giới ở Tây Á, diện tích lớn hơn ¼ châu Âu. Tuy vậy, trên bán đảo chỉ có vùng Yêmen ở Tây Nam là có nguồn nước phong phú, đất đai có thể trồng trọt được. Hơn nữa, nhờ nằm trên con đường buôn bán giữa Tây Á và Bắc Phi nên Yêmen có điều kiện phát triển về thương nghiệp. Vì vậy, từ TK X – XI TCN ở đây đã thành lập nhiều nhà nước cổ đại.
Ngoài Yêmen, vùng Hêgiadơ dọc ven bờ biển Đỏ ở Tây bán đảo cũng tương đối phát triển, vốn là cái cầu nối giữa Địa Trung Hải với phương Đông. Vì vậy, ở đây từ sớm đã xuất hiện những thành phố quan trọng như Mécca và Yatơrip.
Đầu thế kỉ VII, cư dân các thành phố này vẫn sống trong tình trạng thị tộc, bộ lạc. Tuy nhiên, trong từng bộ lạc sự phân hóa giai cấp đã rất sâu sắc.
Ở trung tâm Mécca có ngôi đền Caaba (khối lập phương), trong đó thờ nhiều tượng thần các bộ lạc và đặc biệt là có một phiến đá đen dài khoảng 20 cm được coi là biểu tượng chung của các bộ lạc.
Ngoài Yêmen và vùng Hegiadơ, phần lớn đất đai còn lại là sa mạc và bãi cỏ, khí hậu khô, nguồn nước hiếm, vì vậy cư dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề chăn nuôi mà súc vật được nuôi nhiều nhất là dê và lạc đà. Tuy lạc hậu nhưng đến thế kỉ VII, ở đây cũng diễn ra sự phân hóa giàu nghèo.
2. Sự thành lập và diệt vong của nhà nước Arập.
Đến thế kỉ VII, nhà nước Arập mới ra đời. Quá trình thành lập nhà nước Arập gắn liền với quá trình thành lập đạo Hồi do Môhamét truyền bá.
Môhamét xuất thân từ một bộ lạc có thế lực ở Mécca. Năm 610, ông bắt đầu truyền bá đạo Hồi. Năm 622, ông bị quý tộc Mécca hãm hại phải bỏ chạy lên Yatơrpi. Năm này được coi là năm mở đầu kỉ nguyên Hồi giáo. Môhamét tự xưng là tiên tri nên Yatơrip đổi thành Mêdina (TP của Tiên tri). Tại đây, ông tập hợp được một lực lượng chính trị kết hợp với tôn giáo do ông cầm đầu. Ông thường xuyên tập kích các đội buôn của Mécca để duy trì lực lượng, do đó chiến tranh giữa Mêdina và Mécca xảy ra nhiều lần.
Năm 628, Môhamét kí hòa ước ngưng chiến 10 năm với Mécca. Năm sau, ông dẫn 2000 tín đồ đến Mécca và đến thăm Caaba. Nhiều người ở Mécca và vùng xung quanh cũng theo Hồi giáo.
Năm 630, khi đã đủ thế lực, Môhamét dẫn 10000 quân tiến xuống chiếm Mécca. Mécca không dám chống cự. Môhamét trở thành người đứng đầu nhà nước Arập mới thành lập. Các tượng thần bộ lạc trong đền Mécca bị vứt bỏ. Đền Caaba trở thành thánh thất chính của Hồi giáo và Mécca trở thành thánh địa chủ yếu của tôn giáo này.
Năm 632, Môhamét chết. Từ đó, người đứng đầu nhà nước và tôn giáo ở Arập được gọi là Calipha (người thừa kế của Tiên tri).
Để mở rộng đất đai và truyền bá đạo Hồi, Arập tích cực thi hành chính sách xâm lược bên ngoài. Arập lần lượt chinh phục Xiry (636), Palextin (638), Ai Cập (642), Ba Tư (651).
Sau khi Môhamét chết, từ năm 632 đến 661, các Calipha đều do giới quý tộc bầu. Năm 661, Calipha Ali bị giết chết, viên tổng đốc Xiry thuộc họ Ômayát được lập lên làm Calipha, từ đó ngôi Calipha trở thành cha truyền con nối. Như vậy, vương triều đầu tiên ở Arập – vương triều Ômayát (661 - 750) được thành lập.
Triều Ômayát tiếp tục thi hành chính sách chinh phục bên ngoài, kết quả Arập chiếm được một dải đất ở miền Bắc châu Phi và bán đảo Tây Ban Nha. Đến thế kỉ VIII, Arập trở thành một đế quốc rộng lớn, lãnh thổ bao gồm đất đai của ba châu Á, Phi và châu Âu.
Năm 750, phong trào khởi nghĩa của nhân dân đã lật đổ triều Ômayát. Nhân đó, một địa chủ ở Irắc được lập lên làm Calipha, triều Abát được thành lập.
Đến thế kỉ X, đế quốc Arập không duy trì được sự thống nhất nữa, thế lực ngày càng suy yếu. Năm 1258, Bátđa bị quân Mông Cổ chiếm. Đế quốc Arập bị diệt vong.
II. Đạo Hồi.
Đạo Hồi tiếng Arập gọi là Ixlam (phục tùng). Đây là một tôn giáo nhất thần tuyệt đối. Vị thần duy nhất mà đạo Hồi tôn thờ là thánh Ala. Ala sáng tạo ra thế giới cũng như con người. Còn Môhamét là người được Ala giao cho sứ mệnh truyền bá tôn giáo nên chỉ là sứ giả của Ala và là tiên tri của tín đồ.
Đạo Hồi tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác nhất là của đạo Do Thái như truyền thuyết về sáng thế, thiên đường, địa ngục, cuộc phán xét cuối cùng thiên thần, quỷ Satăng… Đạo Hồi còn bắt chước một số nghi lễ của đạo Do Thái.
Đạo Hồi chỉ có một điều quan trọng không giống các tôn giáo khác là không thờ ảnh tượng. Trong thánh thất Hồi giáo chỉ trang trí bằng chữ Arập, riêng đền Caaba ở Mecca có thờ phiến đá đen từ xưa để lại.
Về quan hệ gia đình, đạo Hồi thừa nhận chế độ đa thê (nhiều nhất là 4 vợ).
Về nghĩa vụ của tín đồ, đạo Hồi quy định:
Thừa nhận chỉ có thánh Ala, không có chúa nào khác, còn Môhamét là sứ giả của Ala và là vị tiên tri cuối cùng.
Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Thứ sáu hàng tuần phải đến thánh thất làm lễ một lần.
Mỗi năm đến tháng Ramađan (tháng 9 lịch Hồi) phải trai giới 1 tháng.
Phải nộp thuế cho đạo. Số thuế ấy dùng để xây cất thánh thất, bù đắp các khoản chi tiêu của chính quyền và bố thí cho người nghèo.
Trong suốt đời người, nếu có khả năng phải hành hương về Mecca một lần.
Kinh thánh của đạo Hồi là kinh Côran, tiếng Arập nghĩa là bài đọc, bài giảng, trong đó ghi lại những lời nói của Môhamét nhưng theo tín đồ Hồi giáo thì đó là những lời phán bảo của thánh Ala.
Kinh Côran đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực. Đối với người Arập, ngoài những nguyên tắc tôn giáo, kinh Côran còn là một bản tổng hợp những tri thức khoa học, mọi nguyên tắc pháp luật và đạo đức.
Tóm lại, Hồi giáo theo Môhamét là: “tin vào Ala và vị tiên tri của ngài, đọc những kinh cầu nguyện đã chỉ định, bố thí cho người nghèo, nhịn ăn trong tháng Ramađan và hành hương ở thánh địa Mecca”. Như vậy, cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn tháng Ramađan và hành hương là 4 bổn phận của Hồi giáo, thêm lòng tin vào Ala và vị tiên tri của ngài nữa thành 5 cái trụ cột của Hồi giáo.
Thời Môhamét, đạo Hồi chỉ mới truyền bá ở bán đảo Arập. Sau đó, cùng với qúa trình chinh phục của Arập, đạo Hồi đã truyền bá khắp Tây Á, Trung Á, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Trong quá trình ấy, đạo Hồi đã chia thành 2 giáo phái chính là phái Xumu và phái Siít.
Ngày nay, đạo Hồi được truyền bá rộng rãi trên thế giới, đã trở thành quốc giáo của 24 nước như: Iran, Irắc, Inđônêxia, Malaixia, Ápganixtan, Thổ Nhĩ Kì, các nước Arập, Xiri, Ai Cập, Li Bi, Angiêri, Marốc….
1. Văn học
Văn học Arập có những thành tựu rất xuất sắc, biểu hiện ở hai mặt: thơ và truyện.
Trước khi nhà nước Arập ra đời, ở Arập đã có rất nhiều thơ ca truyền miệng. Đời sống du mục đã sản sinh ra những nhà thơ tài hoa. Từ nửa sau thế kỉ VII về sau, thơ ca chép bằng chữ viết ra đời. Nội dung là ca ngợi chiến công, tình yêu, rượu ngon, thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời.
Thời kì phát triển rực rỡ nhất của thơ ca Arập là từ thế kỉ VIII – XI. Giữa thế kỉ IX, hai thầy trò Abu Tammam đã dựa trên những thờ ca thời trước, sưu tầm và hiệu đính thành tác phẩm “Anh dũng ca” có 2 tập bao gồm tác thẩm của hơn 500 nhà thờ Arập xưa. Đến thế kỉ X, Abu Lơ Pharagiơ lại soạn tập thơ “Thi ca tập” gồm 20 cuốn.
Trong thời kì này, ở Arập xuất hiện nhiều nhà thơ nổi tiếng, trong đó tiêu biểu nhất là Abu Nuvát và Abu Lơ Ala Maari.
Mặc dù ở Arập, tinh thần Hồi giáo bao trùm khắp đời sống tinh thần, nhưng các nhà thơ, bằng nhiều khuynh hướng đã thoát khỏi sự ràng buộc của tôn giáo.
Về văn xuôi, nổi tiếng nhất là tập “Nghìn lẻ một đêm” hình thành từ thế kỉ X – XII. Những câu chuyện trong tác phẩm này bắt nguồn từ tập “Một nghìn câu chuyện” của Ba Tư ra đời từ thế kỉ VI, dần dần được bổ sung thêm các thần thoại của Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp…rồi cải biên gắn thành một chuyện dài xảy ra trong cung đình Arập. Tập truyện li kì này phản ánh cuộc sống, phong tục, tập quán và ước vọng của nhân dân các dân tộc trong đế quốc Arập, đồng thời thể hiện sức tưởng tượng phong phú của họ.
Năm 1700, một người Xiry đã giữ được bản chép tay tác phẩm này và giới thiệu cho nhà Đông phương học người Pháp Ăngtoan Galăng. Ông này đã dịch tác phẩm này ra tiếng Pháp, lấy nhan đề là “Nghìn lẻ một đêm” và xuất bản lần đầu ở Pari năm 1704. Sau đó tác phẩm này được dịch ra các ngôn ngữ châu Âu và được rất nhiều người ưa thích.
Ngoài ra, ở Arập còn có một tập truyện khác cũng rất nổi tiếng là tập “Ngụ ngôn”. Tập truyện này vốn của Ấn Độ, viết bằng tiếng Phạn, được truyền sang Ba Tư từ thế kỉ VI, đến thế kỉ VIII thì được dịch sang tiếng Arập. Sau đó nguyên bản tiếng Phạn bị mất, chỉ còn bản tiếng Arập và nhờ vậy nó được dịch ra 40 thứ tiếng trên thế giới.
2. Nghệ thuật
Khi nhà nước Arập mới ra đời, vốn thoát thai từ kinh tế du mục và buôn bán, hơn nữa, Môhamét lại cấm điêu khắc và hội họa, cấm dùng tơ lụa đẹp, trang sức nên cơ sở nghệ thuật của Arập rất nghèo nàn. Về sau, do những cấm đoán được nới lỏng, và học tập nghệ thuật của các khu vực văn minh xung quanh nên nghệ thuật Arập cũng có nhiều tiến bộ.
Thành tích về kiến trúc chủ yếu biểu hiện ở cung điện và thánh thất Hồi giáo.
Do Hồi giáo cấm điêu khắc và hội họa nên địa vị của họa sĩ rất thấp.
Âm nhạc lúc đầu cũng bị cấm, về sau mới được nới lỏng. Tuy nhiên, âm nhạc của Arập thường đơn điệu, buồn tẻ.
Trong qúa trình ấy, từ thế kỉ VII, ở Arập người ta đã biết kí âm thể hiện độ cao và độ dài của nốt nhạc, trong khi đó ở châu Âu mãi đến cuối thế kỉ XII mới biết vấn đề này.
Người Arập cũng phát minh ra nhiều loại nhạc cụ như đàn Lút, đàn Lia… Về sau, âm nhạc được dùng trong các buổi lễ
3. Khoa học tự nhiên
Là một nước ra đời muộn nên lúc đầu Arập tương đối lạc hậu về các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Nhưng nhờ học tập các thành tựu của các nền văn minh xung quanh như Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp nên khoa học của Arập đã phát triển nhanh chóng.
Sau khi thành lập nước không lâu, Arập đã cho dịch nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Hy Lạp, Phạn, Xiry..Năm 830, triều Abát xây dựng một trung tâm khoa học bao gồm 1 viện khoa học, 1 đài thiên văn và 1 thư viện cộng với 1 đội ngũ phiên dịch đông đảo. Đến giữa thế kỉ IX, hầu hết các tác phẩm về toán học, thiên văn, y học của Hy Lạp đã được dịch sang tiếng Arập.
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu văn hóa bên ngoài, các học giả Arập đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển, do đó đã có nhiều thành tựu về toán học, thiên văn học, địa lí học, y học….
a) Toán học.
Người Arập tiếp tục phát triển các môn đại số học, lượng giác học, hình học và hoàn thiện hệ thống chữ số.
Nhà đại số học nổi tiếng nhất là An Khoaridơmi (780 - 855). Tác phẩm đại số học của ông là quyển sách đầu tiên về môn khoa học này. Vì vậy, chữ Algèbre trong tiếng Pháp và Algebra trong tiếng Anh (Đại số học) là bắt nguồn từ shữ Alfabr (phục hồi nguyên trạng) trong tiếng Arập.
Nhà toán học Abu Apđala Al Battani (850 - 929) lại có nhiều đóng góp về môn Lượng giác học. Các khái niệm sin, cosin, tang, cotang mà chúng ta sử dụng ngày nay là do ông đặt ra.
Người Arập còn có công lớn trong việc cải tiến và truyền bá hệ thống chữ số. Từ thế kỉ VIII, Arập đã dịch sách Xitđanta – tác phẩm thiên văn học của Ấn Độ viết từ thế kỉ V TCN. Nhờ việc này mà người Arập đã học tập được 10 chữ số của Ấn Độ. Năm 813, An Khoaridơmi đã dùng chữ số Ấn Độ trong môn thiên văn học. Khoảng năm 825, ông viết cuốn sách “An Khoaridơmi viết về con số Ấn Độ”. Năm 976, Môhamét Ibơn Amát nói khi làm toán nếu không có số nào xuất hiện ở hàng chục thì phải dùng một vòng tròn nhỏ thay vào để giữ hàng. Vòng tròn ấy, người Arập gọi là Sifh (trống không), tiếng Latinh đổi thành Zephyrum, người Ý gọi tắt là Zero.
b) Về thiên văn học.
Người Arập cũng rất chú ý quan sát các tinh tú và nghiên cứu các vết trên Mặt trời. Họ cũng cho rằng Trái đất tròn. Al Biruni sống cuối thế kỉ X đầu thế kỉ XI cho rằng vật gì cũng bị hút về phía trung tâm Trái đất. Tuy nhiên, ông lại không dứt khoát khi nói: hoặc Trái đất mỗi ngày quay xung quanh địa trục 1 vòng và mỗi năm quay xung quanh Mặt trời 1 vòng, hoặc ngược lại, Mặt trời quay xung quanh nhật trục mỗi ngày 1 vòng và mỗi năm quay xung quanh trái đất 1 vòng. Cả hai cách giải thích đều đúng.
Cuối thế kỉ XI, người Arập đã làm được một cái thiên cầu bằng đồng thau đường kính 209 mm, trên đó có 47 chòm sao gồm 1015 ngôi sao.
c) Về địa lí học
Người Arập dùng phương pháp cùng một lúc lấy vị trí của mặt trời ở 2 điểm trên mặt đất và tính được 1độ của trái đất dài hơn 90 km và chu vi của trái đất là 35.000 km. như vậy là gần đúng.
Do thương nghiệp phát triển sớm nên người Arập từ thế kỉ IX đã có một số tác phẩm mô tả về Trung Quốc, Ấn Độ, Xri Lanca. Đến cuối thế kỉ X, Arập có một tác phẩm địa lí rất quan trọng, đó là quyển “Địa chí đế quốc Hồi giáo” của Môhamét Al Mucađaxi.
Vào thế kỉ XII, Arập có 2 nhà địa lí học nổi tiếng là Al Iđrixi và Abu Apđala Yacút. Theo yêu cầu của vua Xiri Rôgiê II, Iđrixi đã viết tác phẩm “Sách của Rôgiê” trong đó, ông chia trái đất làm 7 miền khí hậu, mỗi miền lại chia làm 10 phần, mỗi phần có vẽ một bản đồ tương đối chi tiết.
Abu Apđala Yacút cũng viết được 1 bộ sách địa lí tập hợp những hiểu biết về Trái đất lúc bấy giờ.
d) Về vật lí học.
Nhà khoa học tiêu biểu nhất là Al Haitơham sinh năm 965, có nhiều cống hiến về quang học. Tác phẩm “Sách quang học của ông được đánh giá là tác phẩm khoa học nhất thời trung đại. Ông đã biết đến thủy tinh thể, sự khúc xạ của ánh sáng trong không khí và nước. Nhờ vậy, ông tính được lớp khí quyển xung quanh trái đất dày đến 15 km. Ông còn nghiên cứu tác động của ánh sáng chiếu trên các gương lồi, gương lõm và các thấu kính hội tụ. Chính nhờ những gợi ý của ông mà sau này, các nhà vật lí phương Tây đã chế ra kính hiển vi và kính viễn vọng.
e) Về hóa học.
Người Arập đã chế tạo nồi nước cất đầu tiên và đặt tên là al – ambik, nay tiếng Pháp gọi là alamic. Họ cũng phân biệt được axít và bazơ và nhiều chất hóa học khác, bào chế được nhiều loại thuốc.
g) Về sinh vật học.
Từ thế kỉ IX, Ôtman Am an Giahip đã nêu lên thuyết tiến hóa, cho rằng từ khoáng vật tiến hóa thành thực vật rồi đến động vật và người.
Lĩnh vực sinh học mà người Arập quan tâm nhất là thực vật học. Tự sớm họ biết ghép cây, tạo các giống cây mới. Nhà thực vật học tiêu biểu nhất thế kỉ XIII là Baita đã tổng hợp kiến thức thực vật học của người Arập thành một tác phẩm lớn được coi là cơ sở của môn thực vật học và được sử dụng đến thế kỉ XVI. Còn nhà thực vật học Avan đã viết tác phẩm “Sách của nông dân” trong đó hướng dẫn cách trồng 585 loài cây và 50 giống cây ăn quả, hướng dẫn cách ghép cây, chỉ rõ triệu chứng và cách chữa một số bệnh của cây.
h) Về y học.
Tuy bị cấm giải phẫu và mổ tử thi nhưng Arập vẫn là nước có nền y học rất phát triển. Các thầy thuốc Arập đã biết cách chữa trị rất nhiều loại bệnh thuộc nội ngoại khoa, đặc biệt giỏi về khoa mắt. Thành tựu y học Arập thể hiện ở chỗ rất nhiều tác phẩm y học đã được biên soạn như “Mười khái luận về mắt” của Isác, “Sách chỉ dẫn cho các thầy thuốc khoa mắt” của Ixa, “Bệnh đậu mùa và bệnh sởi” của Rađi, “Tiêu chuẩn y học” của Xina… Nhiều tác phẩm trong số này được dịch ra tiếng Latinh và dùng trong các trường Y khoa ở Tây Âu trong nhiều thế kỉ.
Arập có một đội ngũ thầy thuốc đông đảo, danh tiếng vang tận châu Âu, trong đó tiêu biểu nhất là Rađi, Xina, Zuhr.
Thời trung đại, Arập là nước có những thành tựu rất lớn về y học và đứng đầu thế giới về sự nghiệp y tế.
4. Giáo dục.
Arập có một nền giáo dục rất phát triển. Tuy chưa có tổ chức chặt chẽ nhưng chế độ giáo dục của Arập cũng bao gồm 3 cấp tiểu học, trung học và đại học.
Trẻ em từ 6 tuổi (kể cả con gái) đã bắt đầu vào trường sơ học. Môn học chính là tập đọc. Nội dung học là kinh Côran nhưng không chỉ có thần học mà còn bao gồm cả lịch sử, đạo đức và pháp luật. Nơi học thường là thánh thất hoặc ngoài trời. Còn môn tập viết và toán thì lên các lớp trên mới học.
Trường trung học cũng đặt trong các thánh thất. Ngoài thần học, học sinh còn được học văn học, ngôn ngữ, ngữ pháp, toán, thiên văn… trong đó môn ngữ pháp được đặc biệt coi trọng.
Ở bậc đại học, toàn đế quốc có 3 trung tâm là Bátđa, Cairô và Coócđôba.
Đại học Cairô là trường đại học cổ nhất của Arập. Ở Cairô còn có một trung tâm khoa học nghiên cứu và giảng dạy thần học, thiên văn, y học.
Thời trung đại, khi văn hóa Tây Âu suy thoái thì các trung tâm đại học của Arập, nhất là Coócđôba đã thu hút nhiều lưu học sinh Tây Âu đến theo học.
Tóm lại, nền văn minh Arập rất rực rỡ và toàn diện. Nhân dân Arập đã có nhiều đóng góp cho kho tàng văn hóa nhân loại. Đồng thời, họ có vai trò rất to lớn trong việc bảo tồn nhiều di sản văn hóa của Hy Lạp cổ đại. Trong khi ở Tây Âu giáo hội Kitô giáo hủy hoại các tác phẩm cổ điển thì nhiều tác phẩm đã được dịch ra tiếng Arập. Do vậy, nó mới được bảo tồn.
Ngoài ra, người Arập còn là kẻ trung gian truyền bá nhiều phát minh quan trọng của phương Đông như chữ số của Ấn Độ, giấy, nghề in, thuốc súng, la bàn của Trung Quốc sang Tây Âu.
Cổng thành ở Xiry
Thánh thất ở Coocđoba (TBN)
I. Sơ lược về lịch sử Arập.
Tình hình bán đảo Arập trước khi lập nước.
Sự thành lập và diệt vong của nhà nước Arập.
II. Đạo Hồi.
III. Văn học nghệ thuật, khoa học, giáo dục.
Văn học.
Nghệ thuật.
Khoa học tự nhiên: Toán học, Thiên văn học, Địa lí học, Vật lí học, Hóa học, Sinh vật học và Y học.
Giáo dục.
Arập là bán đảo lớn nhất thế giới ở Tây Á, diện tích lớn hơn ¼ châu Âu. Tuy vậy, trên bán đảo chỉ có vùng Yêmen ở Tây Nam là có nguồn nước phong phú, đất đai có thể trồng trọt được. Hơn nữa, nhờ nằm trên con đường buôn bán giữa Tây Á và Bắc Phi nên Yêmen có điều kiện phát triển về thương nghiệp. Vì vậy, từ TK X – XI TCN ở đây đã thành lập nhiều nhà nước cổ đại.
Ngoài Yêmen, vùng Hêgiadơ dọc ven bờ biển Đỏ ở Tây bán đảo cũng tương đối phát triển, vốn là cái cầu nối giữa Địa Trung Hải với phương Đông. Vì vậy, ở đây từ sớm đã xuất hiện những thành phố quan trọng như Mécca và Yatơrip.
Đầu thế kỉ VII, cư dân các thành phố này vẫn sống trong tình trạng thị tộc, bộ lạc. Tuy nhiên, trong từng bộ lạc sự phân hóa giai cấp đã rất sâu sắc.
Ở trung tâm Mécca có ngôi đền Caaba (khối lập phương), trong đó thờ nhiều tượng thần các bộ lạc và đặc biệt là có một phiến đá đen dài khoảng 20 cm được coi là biểu tượng chung của các bộ lạc.
Ngoài Yêmen và vùng Hegiadơ, phần lớn đất đai còn lại là sa mạc và bãi cỏ, khí hậu khô, nguồn nước hiếm, vì vậy cư dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề chăn nuôi mà súc vật được nuôi nhiều nhất là dê và lạc đà. Tuy lạc hậu nhưng đến thế kỉ VII, ở đây cũng diễn ra sự phân hóa giàu nghèo.
2. Sự thành lập và diệt vong của nhà nước Arập.
Đến thế kỉ VII, nhà nước Arập mới ra đời. Quá trình thành lập nhà nước Arập gắn liền với quá trình thành lập đạo Hồi do Môhamét truyền bá.
Môhamét xuất thân từ một bộ lạc có thế lực ở Mécca. Năm 610, ông bắt đầu truyền bá đạo Hồi. Năm 622, ông bị quý tộc Mécca hãm hại phải bỏ chạy lên Yatơrpi. Năm này được coi là năm mở đầu kỉ nguyên Hồi giáo. Môhamét tự xưng là tiên tri nên Yatơrip đổi thành Mêdina (TP của Tiên tri). Tại đây, ông tập hợp được một lực lượng chính trị kết hợp với tôn giáo do ông cầm đầu. Ông thường xuyên tập kích các đội buôn của Mécca để duy trì lực lượng, do đó chiến tranh giữa Mêdina và Mécca xảy ra nhiều lần.
Năm 628, Môhamét kí hòa ước ngưng chiến 10 năm với Mécca. Năm sau, ông dẫn 2000 tín đồ đến Mécca và đến thăm Caaba. Nhiều người ở Mécca và vùng xung quanh cũng theo Hồi giáo.
Năm 630, khi đã đủ thế lực, Môhamét dẫn 10000 quân tiến xuống chiếm Mécca. Mécca không dám chống cự. Môhamét trở thành người đứng đầu nhà nước Arập mới thành lập. Các tượng thần bộ lạc trong đền Mécca bị vứt bỏ. Đền Caaba trở thành thánh thất chính của Hồi giáo và Mécca trở thành thánh địa chủ yếu của tôn giáo này.
Năm 632, Môhamét chết. Từ đó, người đứng đầu nhà nước và tôn giáo ở Arập được gọi là Calipha (người thừa kế của Tiên tri).
Để mở rộng đất đai và truyền bá đạo Hồi, Arập tích cực thi hành chính sách xâm lược bên ngoài. Arập lần lượt chinh phục Xiry (636), Palextin (638), Ai Cập (642), Ba Tư (651).
Sau khi Môhamét chết, từ năm 632 đến 661, các Calipha đều do giới quý tộc bầu. Năm 661, Calipha Ali bị giết chết, viên tổng đốc Xiry thuộc họ Ômayát được lập lên làm Calipha, từ đó ngôi Calipha trở thành cha truyền con nối. Như vậy, vương triều đầu tiên ở Arập – vương triều Ômayát (661 - 750) được thành lập.
Triều Ômayát tiếp tục thi hành chính sách chinh phục bên ngoài, kết quả Arập chiếm được một dải đất ở miền Bắc châu Phi và bán đảo Tây Ban Nha. Đến thế kỉ VIII, Arập trở thành một đế quốc rộng lớn, lãnh thổ bao gồm đất đai của ba châu Á, Phi và châu Âu.
Năm 750, phong trào khởi nghĩa của nhân dân đã lật đổ triều Ômayát. Nhân đó, một địa chủ ở Irắc được lập lên làm Calipha, triều Abát được thành lập.
Đến thế kỉ X, đế quốc Arập không duy trì được sự thống nhất nữa, thế lực ngày càng suy yếu. Năm 1258, Bátđa bị quân Mông Cổ chiếm. Đế quốc Arập bị diệt vong.
II. Đạo Hồi.
Đạo Hồi tiếng Arập gọi là Ixlam (phục tùng). Đây là một tôn giáo nhất thần tuyệt đối. Vị thần duy nhất mà đạo Hồi tôn thờ là thánh Ala. Ala sáng tạo ra thế giới cũng như con người. Còn Môhamét là người được Ala giao cho sứ mệnh truyền bá tôn giáo nên chỉ là sứ giả của Ala và là tiên tri của tín đồ.
Đạo Hồi tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác nhất là của đạo Do Thái như truyền thuyết về sáng thế, thiên đường, địa ngục, cuộc phán xét cuối cùng thiên thần, quỷ Satăng… Đạo Hồi còn bắt chước một số nghi lễ của đạo Do Thái.
Đạo Hồi chỉ có một điều quan trọng không giống các tôn giáo khác là không thờ ảnh tượng. Trong thánh thất Hồi giáo chỉ trang trí bằng chữ Arập, riêng đền Caaba ở Mecca có thờ phiến đá đen từ xưa để lại.
Về quan hệ gia đình, đạo Hồi thừa nhận chế độ đa thê (nhiều nhất là 4 vợ).
Về nghĩa vụ của tín đồ, đạo Hồi quy định:
Thừa nhận chỉ có thánh Ala, không có chúa nào khác, còn Môhamét là sứ giả của Ala và là vị tiên tri cuối cùng.
Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Thứ sáu hàng tuần phải đến thánh thất làm lễ một lần.
Mỗi năm đến tháng Ramađan (tháng 9 lịch Hồi) phải trai giới 1 tháng.
Phải nộp thuế cho đạo. Số thuế ấy dùng để xây cất thánh thất, bù đắp các khoản chi tiêu của chính quyền và bố thí cho người nghèo.
Trong suốt đời người, nếu có khả năng phải hành hương về Mecca một lần.
Kinh thánh của đạo Hồi là kinh Côran, tiếng Arập nghĩa là bài đọc, bài giảng, trong đó ghi lại những lời nói của Môhamét nhưng theo tín đồ Hồi giáo thì đó là những lời phán bảo của thánh Ala.
Kinh Côran đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực. Đối với người Arập, ngoài những nguyên tắc tôn giáo, kinh Côran còn là một bản tổng hợp những tri thức khoa học, mọi nguyên tắc pháp luật và đạo đức.
Tóm lại, Hồi giáo theo Môhamét là: “tin vào Ala và vị tiên tri của ngài, đọc những kinh cầu nguyện đã chỉ định, bố thí cho người nghèo, nhịn ăn trong tháng Ramađan và hành hương ở thánh địa Mecca”. Như vậy, cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn tháng Ramađan và hành hương là 4 bổn phận của Hồi giáo, thêm lòng tin vào Ala và vị tiên tri của ngài nữa thành 5 cái trụ cột của Hồi giáo.
Thời Môhamét, đạo Hồi chỉ mới truyền bá ở bán đảo Arập. Sau đó, cùng với qúa trình chinh phục của Arập, đạo Hồi đã truyền bá khắp Tây Á, Trung Á, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Trong quá trình ấy, đạo Hồi đã chia thành 2 giáo phái chính là phái Xumu và phái Siít.
Ngày nay, đạo Hồi được truyền bá rộng rãi trên thế giới, đã trở thành quốc giáo của 24 nước như: Iran, Irắc, Inđônêxia, Malaixia, Ápganixtan, Thổ Nhĩ Kì, các nước Arập, Xiri, Ai Cập, Li Bi, Angiêri, Marốc….
1. Văn học
Văn học Arập có những thành tựu rất xuất sắc, biểu hiện ở hai mặt: thơ và truyện.
Trước khi nhà nước Arập ra đời, ở Arập đã có rất nhiều thơ ca truyền miệng. Đời sống du mục đã sản sinh ra những nhà thơ tài hoa. Từ nửa sau thế kỉ VII về sau, thơ ca chép bằng chữ viết ra đời. Nội dung là ca ngợi chiến công, tình yêu, rượu ngon, thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời.
Thời kì phát triển rực rỡ nhất của thơ ca Arập là từ thế kỉ VIII – XI. Giữa thế kỉ IX, hai thầy trò Abu Tammam đã dựa trên những thờ ca thời trước, sưu tầm và hiệu đính thành tác phẩm “Anh dũng ca” có 2 tập bao gồm tác thẩm của hơn 500 nhà thờ Arập xưa. Đến thế kỉ X, Abu Lơ Pharagiơ lại soạn tập thơ “Thi ca tập” gồm 20 cuốn.
Trong thời kì này, ở Arập xuất hiện nhiều nhà thơ nổi tiếng, trong đó tiêu biểu nhất là Abu Nuvát và Abu Lơ Ala Maari.
Mặc dù ở Arập, tinh thần Hồi giáo bao trùm khắp đời sống tinh thần, nhưng các nhà thơ, bằng nhiều khuynh hướng đã thoát khỏi sự ràng buộc của tôn giáo.
Về văn xuôi, nổi tiếng nhất là tập “Nghìn lẻ một đêm” hình thành từ thế kỉ X – XII. Những câu chuyện trong tác phẩm này bắt nguồn từ tập “Một nghìn câu chuyện” của Ba Tư ra đời từ thế kỉ VI, dần dần được bổ sung thêm các thần thoại của Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp…rồi cải biên gắn thành một chuyện dài xảy ra trong cung đình Arập. Tập truyện li kì này phản ánh cuộc sống, phong tục, tập quán và ước vọng của nhân dân các dân tộc trong đế quốc Arập, đồng thời thể hiện sức tưởng tượng phong phú của họ.
Năm 1700, một người Xiry đã giữ được bản chép tay tác phẩm này và giới thiệu cho nhà Đông phương học người Pháp Ăngtoan Galăng. Ông này đã dịch tác phẩm này ra tiếng Pháp, lấy nhan đề là “Nghìn lẻ một đêm” và xuất bản lần đầu ở Pari năm 1704. Sau đó tác phẩm này được dịch ra các ngôn ngữ châu Âu và được rất nhiều người ưa thích.
Ngoài ra, ở Arập còn có một tập truyện khác cũng rất nổi tiếng là tập “Ngụ ngôn”. Tập truyện này vốn của Ấn Độ, viết bằng tiếng Phạn, được truyền sang Ba Tư từ thế kỉ VI, đến thế kỉ VIII thì được dịch sang tiếng Arập. Sau đó nguyên bản tiếng Phạn bị mất, chỉ còn bản tiếng Arập và nhờ vậy nó được dịch ra 40 thứ tiếng trên thế giới.
2. Nghệ thuật
Khi nhà nước Arập mới ra đời, vốn thoát thai từ kinh tế du mục và buôn bán, hơn nữa, Môhamét lại cấm điêu khắc và hội họa, cấm dùng tơ lụa đẹp, trang sức nên cơ sở nghệ thuật của Arập rất nghèo nàn. Về sau, do những cấm đoán được nới lỏng, và học tập nghệ thuật của các khu vực văn minh xung quanh nên nghệ thuật Arập cũng có nhiều tiến bộ.
Thành tích về kiến trúc chủ yếu biểu hiện ở cung điện và thánh thất Hồi giáo.
Do Hồi giáo cấm điêu khắc và hội họa nên địa vị của họa sĩ rất thấp.
Âm nhạc lúc đầu cũng bị cấm, về sau mới được nới lỏng. Tuy nhiên, âm nhạc của Arập thường đơn điệu, buồn tẻ.
Trong qúa trình ấy, từ thế kỉ VII, ở Arập người ta đã biết kí âm thể hiện độ cao và độ dài của nốt nhạc, trong khi đó ở châu Âu mãi đến cuối thế kỉ XII mới biết vấn đề này.
Người Arập cũng phát minh ra nhiều loại nhạc cụ như đàn Lút, đàn Lia… Về sau, âm nhạc được dùng trong các buổi lễ
3. Khoa học tự nhiên
Là một nước ra đời muộn nên lúc đầu Arập tương đối lạc hậu về các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Nhưng nhờ học tập các thành tựu của các nền văn minh xung quanh như Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp nên khoa học của Arập đã phát triển nhanh chóng.
Sau khi thành lập nước không lâu, Arập đã cho dịch nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Hy Lạp, Phạn, Xiry..Năm 830, triều Abát xây dựng một trung tâm khoa học bao gồm 1 viện khoa học, 1 đài thiên văn và 1 thư viện cộng với 1 đội ngũ phiên dịch đông đảo. Đến giữa thế kỉ IX, hầu hết các tác phẩm về toán học, thiên văn, y học của Hy Lạp đã được dịch sang tiếng Arập.
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu văn hóa bên ngoài, các học giả Arập đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển, do đó đã có nhiều thành tựu về toán học, thiên văn học, địa lí học, y học….
a) Toán học.
Người Arập tiếp tục phát triển các môn đại số học, lượng giác học, hình học và hoàn thiện hệ thống chữ số.
Nhà đại số học nổi tiếng nhất là An Khoaridơmi (780 - 855). Tác phẩm đại số học của ông là quyển sách đầu tiên về môn khoa học này. Vì vậy, chữ Algèbre trong tiếng Pháp và Algebra trong tiếng Anh (Đại số học) là bắt nguồn từ shữ Alfabr (phục hồi nguyên trạng) trong tiếng Arập.
Nhà toán học Abu Apđala Al Battani (850 - 929) lại có nhiều đóng góp về môn Lượng giác học. Các khái niệm sin, cosin, tang, cotang mà chúng ta sử dụng ngày nay là do ông đặt ra.
Người Arập còn có công lớn trong việc cải tiến và truyền bá hệ thống chữ số. Từ thế kỉ VIII, Arập đã dịch sách Xitđanta – tác phẩm thiên văn học của Ấn Độ viết từ thế kỉ V TCN. Nhờ việc này mà người Arập đã học tập được 10 chữ số của Ấn Độ. Năm 813, An Khoaridơmi đã dùng chữ số Ấn Độ trong môn thiên văn học. Khoảng năm 825, ông viết cuốn sách “An Khoaridơmi viết về con số Ấn Độ”. Năm 976, Môhamét Ibơn Amát nói khi làm toán nếu không có số nào xuất hiện ở hàng chục thì phải dùng một vòng tròn nhỏ thay vào để giữ hàng. Vòng tròn ấy, người Arập gọi là Sifh (trống không), tiếng Latinh đổi thành Zephyrum, người Ý gọi tắt là Zero.
b) Về thiên văn học.
Người Arập cũng rất chú ý quan sát các tinh tú và nghiên cứu các vết trên Mặt trời. Họ cũng cho rằng Trái đất tròn. Al Biruni sống cuối thế kỉ X đầu thế kỉ XI cho rằng vật gì cũng bị hút về phía trung tâm Trái đất. Tuy nhiên, ông lại không dứt khoát khi nói: hoặc Trái đất mỗi ngày quay xung quanh địa trục 1 vòng và mỗi năm quay xung quanh Mặt trời 1 vòng, hoặc ngược lại, Mặt trời quay xung quanh nhật trục mỗi ngày 1 vòng và mỗi năm quay xung quanh trái đất 1 vòng. Cả hai cách giải thích đều đúng.
Cuối thế kỉ XI, người Arập đã làm được một cái thiên cầu bằng đồng thau đường kính 209 mm, trên đó có 47 chòm sao gồm 1015 ngôi sao.
c) Về địa lí học
Người Arập dùng phương pháp cùng một lúc lấy vị trí của mặt trời ở 2 điểm trên mặt đất và tính được 1độ của trái đất dài hơn 90 km và chu vi của trái đất là 35.000 km. như vậy là gần đúng.
Do thương nghiệp phát triển sớm nên người Arập từ thế kỉ IX đã có một số tác phẩm mô tả về Trung Quốc, Ấn Độ, Xri Lanca. Đến cuối thế kỉ X, Arập có một tác phẩm địa lí rất quan trọng, đó là quyển “Địa chí đế quốc Hồi giáo” của Môhamét Al Mucađaxi.
Vào thế kỉ XII, Arập có 2 nhà địa lí học nổi tiếng là Al Iđrixi và Abu Apđala Yacút. Theo yêu cầu của vua Xiri Rôgiê II, Iđrixi đã viết tác phẩm “Sách của Rôgiê” trong đó, ông chia trái đất làm 7 miền khí hậu, mỗi miền lại chia làm 10 phần, mỗi phần có vẽ một bản đồ tương đối chi tiết.
Abu Apđala Yacút cũng viết được 1 bộ sách địa lí tập hợp những hiểu biết về Trái đất lúc bấy giờ.
d) Về vật lí học.
Nhà khoa học tiêu biểu nhất là Al Haitơham sinh năm 965, có nhiều cống hiến về quang học. Tác phẩm “Sách quang học của ông được đánh giá là tác phẩm khoa học nhất thời trung đại. Ông đã biết đến thủy tinh thể, sự khúc xạ của ánh sáng trong không khí và nước. Nhờ vậy, ông tính được lớp khí quyển xung quanh trái đất dày đến 15 km. Ông còn nghiên cứu tác động của ánh sáng chiếu trên các gương lồi, gương lõm và các thấu kính hội tụ. Chính nhờ những gợi ý của ông mà sau này, các nhà vật lí phương Tây đã chế ra kính hiển vi và kính viễn vọng.
e) Về hóa học.
Người Arập đã chế tạo nồi nước cất đầu tiên và đặt tên là al – ambik, nay tiếng Pháp gọi là alamic. Họ cũng phân biệt được axít và bazơ và nhiều chất hóa học khác, bào chế được nhiều loại thuốc.
g) Về sinh vật học.
Từ thế kỉ IX, Ôtman Am an Giahip đã nêu lên thuyết tiến hóa, cho rằng từ khoáng vật tiến hóa thành thực vật rồi đến động vật và người.
Lĩnh vực sinh học mà người Arập quan tâm nhất là thực vật học. Tự sớm họ biết ghép cây, tạo các giống cây mới. Nhà thực vật học tiêu biểu nhất thế kỉ XIII là Baita đã tổng hợp kiến thức thực vật học của người Arập thành một tác phẩm lớn được coi là cơ sở của môn thực vật học và được sử dụng đến thế kỉ XVI. Còn nhà thực vật học Avan đã viết tác phẩm “Sách của nông dân” trong đó hướng dẫn cách trồng 585 loài cây và 50 giống cây ăn quả, hướng dẫn cách ghép cây, chỉ rõ triệu chứng và cách chữa một số bệnh của cây.
h) Về y học.
Tuy bị cấm giải phẫu và mổ tử thi nhưng Arập vẫn là nước có nền y học rất phát triển. Các thầy thuốc Arập đã biết cách chữa trị rất nhiều loại bệnh thuộc nội ngoại khoa, đặc biệt giỏi về khoa mắt. Thành tựu y học Arập thể hiện ở chỗ rất nhiều tác phẩm y học đã được biên soạn như “Mười khái luận về mắt” của Isác, “Sách chỉ dẫn cho các thầy thuốc khoa mắt” của Ixa, “Bệnh đậu mùa và bệnh sởi” của Rađi, “Tiêu chuẩn y học” của Xina… Nhiều tác phẩm trong số này được dịch ra tiếng Latinh và dùng trong các trường Y khoa ở Tây Âu trong nhiều thế kỉ.
Arập có một đội ngũ thầy thuốc đông đảo, danh tiếng vang tận châu Âu, trong đó tiêu biểu nhất là Rađi, Xina, Zuhr.
Thời trung đại, Arập là nước có những thành tựu rất lớn về y học và đứng đầu thế giới về sự nghiệp y tế.
4. Giáo dục.
Arập có một nền giáo dục rất phát triển. Tuy chưa có tổ chức chặt chẽ nhưng chế độ giáo dục của Arập cũng bao gồm 3 cấp tiểu học, trung học và đại học.
Trẻ em từ 6 tuổi (kể cả con gái) đã bắt đầu vào trường sơ học. Môn học chính là tập đọc. Nội dung học là kinh Côran nhưng không chỉ có thần học mà còn bao gồm cả lịch sử, đạo đức và pháp luật. Nơi học thường là thánh thất hoặc ngoài trời. Còn môn tập viết và toán thì lên các lớp trên mới học.
Trường trung học cũng đặt trong các thánh thất. Ngoài thần học, học sinh còn được học văn học, ngôn ngữ, ngữ pháp, toán, thiên văn… trong đó môn ngữ pháp được đặc biệt coi trọng.
Ở bậc đại học, toàn đế quốc có 3 trung tâm là Bátđa, Cairô và Coócđôba.
Đại học Cairô là trường đại học cổ nhất của Arập. Ở Cairô còn có một trung tâm khoa học nghiên cứu và giảng dạy thần học, thiên văn, y học.
Thời trung đại, khi văn hóa Tây Âu suy thoái thì các trung tâm đại học của Arập, nhất là Coócđôba đã thu hút nhiều lưu học sinh Tây Âu đến theo học.
Tóm lại, nền văn minh Arập rất rực rỡ và toàn diện. Nhân dân Arập đã có nhiều đóng góp cho kho tàng văn hóa nhân loại. Đồng thời, họ có vai trò rất to lớn trong việc bảo tồn nhiều di sản văn hóa của Hy Lạp cổ đại. Trong khi ở Tây Âu giáo hội Kitô giáo hủy hoại các tác phẩm cổ điển thì nhiều tác phẩm đã được dịch ra tiếng Arập. Do vậy, nó mới được bảo tồn.
Ngoài ra, người Arập còn là kẻ trung gian truyền bá nhiều phát minh quan trọng của phương Đông như chữ số của Ấn Độ, giấy, nghề in, thuốc súng, la bàn của Trung Quốc sang Tây Âu.
Cổng thành ở Xiry
Thánh thất ở Coocđoba (TBN)
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Đăng Trình
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)