Văn học việt nam tiếp thu chọn lọc và sáng tạo tinh hoa văn học trung hoa
Chia sẻ bởi Lê Khánh Mai |
Ngày 21/10/2018 |
138
Chia sẻ tài liệu: văn học việt nam tiếp thu chọn lọc và sáng tạo tinh hoa văn học trung hoa thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
CHÀO MỪNG CÔ GIÁO VÀ CÁC BẠN
ĐẾN VỚI BÀI THỰC HÀNH NHÓM KIỀU
Thành viên nhóm Kiều:
Chu Thị Bình
Hà Thị Hiền
Nguyễn Thùy Linh
Lê Thị Khánh Mai
Triệu Thị Ngọc Mai
Mạn Thị Nhung
Lê Thị Hồng Phương
Nông Bích Phượng
Nguyễn Huyền Trang
Ai tinh mắt?
THỰC HÀNH
CHỨNG MINH
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TIẾP THU CÓ CHỌN LỌC VÀ SÁNG TẠO TỪ NỀN VĂN HỌC TRUNG HOA
TIẾP THU CÓ CHỌN LỌC VÀ SÁNG TẠO
1. VỀ VĂN TỰ
Hán văn ngôn đọc theo âm Hán Việt làm công cụ sáng tác văn học.
Không bị phụ thuộc vào lối phát âm của người Trung Hoa, được coi là phương án tối ưu của dân tộc trong hoàn cảnh chưa có văn tự.
Tách dần khỏi phạm vi ảnh hưởng của họ.
“Nam Quốc Sơn Hà”
Bài thơ tiêu biểu được viết bằng chữ Hán đọc theo âm Hán – Việt
Trên cơ sở đó, chúng ta sáng tạo ra chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt.
Người Việt không chỉ dừng ở sự tiếp nhận mà còn tiếp biến theo hướng dân tộc hóa và tiếp đó là sáng tạo.
Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của văn học trung đại.
Những sáng tác bằng chữ Nôm tiêu biểu
2. VỀ THỂ LOẠI:
Những thể văn liên quan đến các công việc hành chính như chiếu, cáo, hịch, biểu,…hoặc liên quan đến nghi lễ như văn tế, câu đối, thần phả,… người Việt đều tiếp nhận để phục vụ cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và sinh hoạt văn hóa dân tộc.
CHIẾU DỜI ĐÔ – LÝ CÔNG UẨN
Các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam tiêu biểu sử dụng thể văn Trung Hoa
Những thể loại như thơ ca, từ phú, từ khúc, truyện,…về cơ bản ta cũng tiếp nhận, dùng chúng để phản ánh đời sống tâm linh người Việt.
Đối với thể phú và thơ Đường, người Việt đã đi từ Việt hóa đến sáng tạo.
Sự sáng tạo ba thể thơ mở chân trời mới cho thơ ca Việt Nam
Từ gợi ý mô hình thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt
Kết hợp lối gieo vần lưng, ngắt nhịp chẵn lẻ trong thơ ca dân gian.
Sáng tạo các thể thơ dân tộc: song thất lục bát, lục bát và hát nói.
Thể song thất lục bát
“Tự tình khúc’ – Cao Bá Nhạ
“Lúc ẩn trốn:
Vườn riêng lấy cỏ cây làm bạn
Nằm dài xem én nhạn bay qua
Sông hồ ngày tháng lân la
Một hai hoàn quyển năm ba tiểu đồng
Mối tâm sự rối mười phần thảm
Gánh gia tình nặng tám năm dư
Khi ngày mong bức xá thư,
Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng.”
(Trích)
Thể lục bát
“Truyện Lục Vân Tiên”- Nguyễn Đình Chiểu
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!
Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,
Kim quân hứa giá, ngã thành ông
Cười cười nói nói thẹn thùng,
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại
Riêng một thú Thanh Sơn đi lại
Khéo ngây ngây dại dại với tình.
Đàn ai một tiếng dương tranh...
(Trích)
Thể hát nói:
“Gặp lại cô đầu cũ – Dương Khuê
3
2
1
Truyện truyền kì việt nam chủ yếu dựa vào truyện dân gian Việt Nam .
Kí Việt Nam cũng vậy chúng gắn bó với quê hương, làng xóm, đất nước, dân tộc. .
Tiểu thuyết Việt Nam dưới hình thức chương hồi chủ yếu viết về đề tài lịch sử, viết về những điều đang xảy ra, còn tiểu thuyết thế sự lại được viết chủ yếu bằng thơ.
Văn xuôi tự sự biến đổi về nội dung và cách diễn đạt :
3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
Làm giàu cho kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam.
Tiếp nhận cách biểu hiện.
Tiếp nhận thi liệu.
Tiếp nhận hệ thống điển tích, điển cố.
Tiếp nhận văn liệu.
01
02
03
04
Truyện “Kiều” của Nguyễn Du dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) để viết nên một truyện thơ mới thuần Việt.
“Truyền kỳ mạn lục” sử dụng nhiều điển tích, điển cố của Trung Hoa để tạo ra là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán.
4. Củng cố
Như vậy, tiếp nhận có chọn lọc, tiếp nhận để sáng tạo theo khuynh hướng dân tộc hoa là đặc điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.
1
2
3
Chữ Nôm
Trên cơ sở chữ Hán và bộ chữ Hán đọc theo âm Hán Việt cha ông ta đã sáng chế ra loại văn tự dân tộc nào để ghi âm Tiếng Việt?
Tại sao các tác gia trung đại Việt Nam chọn chữ Hán văn ngôn đọc theo âm Hán Việt làm công cụ sáng tác văn học mà không sử dụng chữ Hán đọc theo văn ngôn đọc theo âm Hán?
Không bị phụ thuộc vào lối phát âm của người Trung Hoa
Tách dần khỏi phạm vi ảnh hưởng của họ.
Lục bát, song thất lục bát, hát nói.
Từ gợi ý mô hình thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt.
Kết hợp lối gieo vần lưng, ngắn nhịp chẵn lẻ trong thơ ca dân gian, Người Việt đã sáng tạo ra 3 thể thơ mới nào?
CẢM ƠN CÔ GIÁO VÀ CÁC BẠN ĐÃ THEO DÕI BÀI THỰC HÀNH NHÓM KIỀU
ĐẾN VỚI BÀI THỰC HÀNH NHÓM KIỀU
Thành viên nhóm Kiều:
Chu Thị Bình
Hà Thị Hiền
Nguyễn Thùy Linh
Lê Thị Khánh Mai
Triệu Thị Ngọc Mai
Mạn Thị Nhung
Lê Thị Hồng Phương
Nông Bích Phượng
Nguyễn Huyền Trang
Ai tinh mắt?
THỰC HÀNH
CHỨNG MINH
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TIẾP THU CÓ CHỌN LỌC VÀ SÁNG TẠO TỪ NỀN VĂN HỌC TRUNG HOA
TIẾP THU CÓ CHỌN LỌC VÀ SÁNG TẠO
1. VỀ VĂN TỰ
Hán văn ngôn đọc theo âm Hán Việt làm công cụ sáng tác văn học.
Không bị phụ thuộc vào lối phát âm của người Trung Hoa, được coi là phương án tối ưu của dân tộc trong hoàn cảnh chưa có văn tự.
Tách dần khỏi phạm vi ảnh hưởng của họ.
“Nam Quốc Sơn Hà”
Bài thơ tiêu biểu được viết bằng chữ Hán đọc theo âm Hán – Việt
Trên cơ sở đó, chúng ta sáng tạo ra chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt.
Người Việt không chỉ dừng ở sự tiếp nhận mà còn tiếp biến theo hướng dân tộc hóa và tiếp đó là sáng tạo.
Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của văn học trung đại.
Những sáng tác bằng chữ Nôm tiêu biểu
2. VỀ THỂ LOẠI:
Những thể văn liên quan đến các công việc hành chính như chiếu, cáo, hịch, biểu,…hoặc liên quan đến nghi lễ như văn tế, câu đối, thần phả,… người Việt đều tiếp nhận để phục vụ cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và sinh hoạt văn hóa dân tộc.
CHIẾU DỜI ĐÔ – LÝ CÔNG UẨN
Các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam tiêu biểu sử dụng thể văn Trung Hoa
Những thể loại như thơ ca, từ phú, từ khúc, truyện,…về cơ bản ta cũng tiếp nhận, dùng chúng để phản ánh đời sống tâm linh người Việt.
Đối với thể phú và thơ Đường, người Việt đã đi từ Việt hóa đến sáng tạo.
Sự sáng tạo ba thể thơ mở chân trời mới cho thơ ca Việt Nam
Từ gợi ý mô hình thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt
Kết hợp lối gieo vần lưng, ngắt nhịp chẵn lẻ trong thơ ca dân gian.
Sáng tạo các thể thơ dân tộc: song thất lục bát, lục bát và hát nói.
Thể song thất lục bát
“Tự tình khúc’ – Cao Bá Nhạ
“Lúc ẩn trốn:
Vườn riêng lấy cỏ cây làm bạn
Nằm dài xem én nhạn bay qua
Sông hồ ngày tháng lân la
Một hai hoàn quyển năm ba tiểu đồng
Mối tâm sự rối mười phần thảm
Gánh gia tình nặng tám năm dư
Khi ngày mong bức xá thư,
Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng.”
(Trích)
Thể lục bát
“Truyện Lục Vân Tiên”- Nguyễn Đình Chiểu
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!
Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,
Kim quân hứa giá, ngã thành ông
Cười cười nói nói thẹn thùng,
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại
Riêng một thú Thanh Sơn đi lại
Khéo ngây ngây dại dại với tình.
Đàn ai một tiếng dương tranh...
(Trích)
Thể hát nói:
“Gặp lại cô đầu cũ – Dương Khuê
3
2
1
Truyện truyền kì việt nam chủ yếu dựa vào truyện dân gian Việt Nam .
Kí Việt Nam cũng vậy chúng gắn bó với quê hương, làng xóm, đất nước, dân tộc. .
Tiểu thuyết Việt Nam dưới hình thức chương hồi chủ yếu viết về đề tài lịch sử, viết về những điều đang xảy ra, còn tiểu thuyết thế sự lại được viết chủ yếu bằng thơ.
Văn xuôi tự sự biến đổi về nội dung và cách diễn đạt :
3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
Làm giàu cho kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam.
Tiếp nhận cách biểu hiện.
Tiếp nhận thi liệu.
Tiếp nhận hệ thống điển tích, điển cố.
Tiếp nhận văn liệu.
01
02
03
04
Truyện “Kiều” của Nguyễn Du dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) để viết nên một truyện thơ mới thuần Việt.
“Truyền kỳ mạn lục” sử dụng nhiều điển tích, điển cố của Trung Hoa để tạo ra là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán.
4. Củng cố
Như vậy, tiếp nhận có chọn lọc, tiếp nhận để sáng tạo theo khuynh hướng dân tộc hoa là đặc điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.
1
2
3
Chữ Nôm
Trên cơ sở chữ Hán và bộ chữ Hán đọc theo âm Hán Việt cha ông ta đã sáng chế ra loại văn tự dân tộc nào để ghi âm Tiếng Việt?
Tại sao các tác gia trung đại Việt Nam chọn chữ Hán văn ngôn đọc theo âm Hán Việt làm công cụ sáng tác văn học mà không sử dụng chữ Hán đọc theo văn ngôn đọc theo âm Hán?
Không bị phụ thuộc vào lối phát âm của người Trung Hoa
Tách dần khỏi phạm vi ảnh hưởng của họ.
Lục bát, song thất lục bát, hát nói.
Từ gợi ý mô hình thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt.
Kết hợp lối gieo vần lưng, ngắn nhịp chẵn lẻ trong thơ ca dân gian, Người Việt đã sáng tạo ra 3 thể thơ mới nào?
CẢM ƠN CÔ GIÁO VÀ CÁC BẠN ĐÃ THEO DÕI BÀI THỰC HÀNH NHÓM KIỀU
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Khánh Mai
Dung lượng: |
Lượt tài: 3
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)