Van học thiếu nhi
Chia sẻ bởi Minh Ly |
Ngày 21/10/2018 |
19
Chia sẻ tài liệu: van học thiếu nhi thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Chương x: Văn học thiếu nhi
Sau CMT8 1945
VH thiếu nhi
Nghĩa hẹp: gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi.
Nghiã rộng: gồm những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi.
Ở Việt Nam đầu thế kỉ XX bắt đầu xuất hiện các tác phẩm vh viết cho các em nhưng chỉ sau 1945 nền vh thiếu nhi mới chính thức hình thành. Đến nay trải qua nhiều thăng trầm, vh thiếu nhi VN đã phát triển phong phú, đa dạng và thực sự trở thành một bộ phận quan trọng của nền VHDT.
Một số tác giả tiêu biểu
Phạm Hổ
Võ Quảng
Trần Đăng Khoa
Phạm Hổ
I. Vài nét về tác gỉa, tác phẩm
1. Tiểu sử
- Sinh ngày 28–11-1926 tại An Nhơn, Bình Định.
- Thuở nhỏ theo học trường làng, sau theo
Người anh trai là Phạm Văn Kí ra học tiểu học ở
Huế, rồi trung học ở Quy Nhơn
- 1943 đỗ bằng thành chung, chưa kịp thi tú
tài CMT8 thành công. Ông theo CM và hoạt động
văn nghệ từ đó.
- 1955 ông tập kết ra Bắc, là một trong những thành
viên sáng lập nxb Kim Đồng
- Ông sáng tác nhều thể loại cho cả người lớn và trẻ em nhưng ông có
sự đóng góp to lớn trong vh thiếu nhi nước nhà.
- Ông đã nhận nhiều giải thưởng Nhà nước về VHNT. TP của ông được
giới thiệu ở các nước: Anh, Trung Quốc, Pháp, Ý...
Những tác phẩm chính đã xuất bản: Những ngày thân ái (tập thơ, 1957); Ra khơi (tập thơ, 1960); Đi xa (tập thơ, 1970); Những ô cửa, những nẻo đường (tập thơ, 1976); Vườn xoan (chuyện ngắn, 1961); Tình thương (tiểu thuyết, 1964 tái bản 1974); Chú bò tìm bạn (tập thơ, 1970 tái bản 1996); Ngựa thần từ đâu đến (tập chuyện, 1986); Chuyện hoa, chuyện quả ( toàn bộ 6 tập từ 1971-1994); Cất nhà giữa hồ (tập chuyện cổ tích, 1995); Nàng tiên nhỏ thành ốc (bộ ba vở kịch in 1980, tái bản 1993) và nhiều tập thơ, tập chuyện, tập kịch khác viết cho thiếu nhi.
2. Sáng tác: gồm 3 mảng lớn: Thơ, truyện, kịch
* Thơ cho thiếu nhi
- Thơ ông vui, ngộ nghĩnh, giàu tưởng tượng, những chuyện lạ trở nên chân thực trong thơ ông
Cửa lụa
+ Những chi tiết hồn nhiên, ngộ nghĩnh được sử dụng nhiều trong thơ Phạm Hổ. Ai đã đọc Ngủ rồi, Chơi ú tim, Ngựa con… hẳn khó có thể quên được những câu nói, những suy nghĩ đáng yêu của con trẻ. Trả lời câu hỏi của mẹ : Đã ngủ chưa đấy hả ?cả đàn gà con nhao nhao : “Ngủ cả rồi đấy ạ !”. Ngủ rồi mà vẫn “ nhao nhao” thì chỉ có trẻ con mới làm được. Cũng chỉ trẻ con mới có kiểu lý luận này :
Không mình nấp giỏi thật
Lỗi chỉ tại cái đuôi ! (Chơi ú tim)…
+ Đôi khi, Phạm Hổ cũng đưa cả nét dí dỏm của người lớn vào thơ.
Bài thơ Soi gương là một ví dụ. “ Có ai đang khóc nhè
Mà soi gương không bố ?
Một đứa khóc đủ rồi
Soi chi thành hai đứa”
Bài thơ có cái hồn nhiên của đứa trẻ (câu hỏi), lại có cái hóm hỉnh của người bố (câu trả lời). Chất hồn nhiên, chất dí dỏm kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ thêm phần đáng yêu.
Mỗi bài thơ là câu chuyện nhỏ xinh, tiếng cười hóm hỉnh, sảng khoái, thế giới sự vật hiện lên đáng yêu ngộ nghĩnh như trong thế giới tưởng tuợng của các bé.
Thơ ông đề cập tới nhiều vấn đề về tình cảm gia đình, tình yêu đất nước.
+ Ông vẽ lên bức tranh quê hương thân thuộc đầy màu sắc:
...Vườn quê ta nghìn năm
Bao đời nay thân thuộc
Một màu xanh êm đềm
Trăm hương thơm vị ngọt
Nội dung bao trùm nhất thơ ông là tình bạn. Điều dễ nhận thấy là thơ Phạm Hổ nói nhiều về chủ đề tình bạn. Phạm Hổ thừa nhận: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống con người. Trong hơn 10 tập thơ viết cho các em, đã có 6 tập”. Mối quan tâm của tác giả là có cơ sở hiện thực.
+ Dấu hiệu nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ trước hết là ở việc đặt tên cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào… Đi vào văn bản, ta thấy cảm hứng tình bạn xuyên thấm ở hầu hết mọi bài thơ, tập thơ. Dù viết về điều gì, Phạm Hổ cũng đều gợi lên cho các em một câu chuyện tình bạn. Một chú bò đi lang thang trong chiều với tiếng “ậm…ò…” đã trở thành hình ảnh đáng yêu trong nỗi thiết tha gọi bạn.
+ Bài thơ này được Phạm Hổ viết vào năm 1952. Gợi nguồn cảm hứng cho nhà thơ là hình ảnh những chú bò chiều chiều ra sông uống nước. Đâu đó trong không gian chiều muộn vang vọng tiếng “ ậm… ò…”. Tứ thơ chợt đến, bài thơ hiện ra sau những thăng hoa của cảm xúc.
“Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai
Bò chào: - kìa anh bạn
Lại gặp anh ở đây!
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu Cứ ngoái trước nhìn sau
Am…ò tìm gọi mãi…”.
Trong cảm quan dân gian, chú bò là biểu tượng của tính lơ ngơ (Lơ ngơ như bò đội nón). Trong thơ Phạm Hổ, chú bò vẫn có cái lơ ngơ nhưng thật đáng yêu. Đáng yêu ở hành vi biết chào hỏi. Đáng yêu ở hành vi thiết tha gọi bạn…
+ Bài thơ Chú bò tìm bạn được xem là tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Hổ. Sau bài thơ này, cảm hứng tình bạn như một dòng chảy tuôn trào mang những hạt phù sa màu mỡ vào cánh đồng thơ Phạm Hổ. Kết quả, cánh đồng thơ ấy cứ lấp lánh lên những sắc màu đáng yêu của tình bạn. Đúng là với Phạm Hổ, thế giới được cấu trúc theo quan hệ tình bạn. Cái rế là bạn của cái chảo, cái nồi.
“ Chảo, nồi đang bận nấu
Rế ngồi bên đợi chờ”
Con chó, con mèo nào có ghét nhau. Chúng chơi với nhau thật thân thiết “ Rủ nhau chơi ú tim
Giờ đến phiên cho trốn
Mèo đảo mắt tìm quanh
Chó nấp đâu giỏi gớm
Bỗng kìa chỗ khe tủ
Chó để lộ cái đuôi
Rón rén mèo đến nơi
Oà chộp ngay lưng bạn …”(Chơi ú tim).
Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này không ngoài mục đích tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
- Cùng với nội dung tình bạn, Phạm Hổ còn muốn cung cấp cho các em những hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ông giới thiệu cho các em tên gọi hay đặc điểm hình thức, ích dụng của sự vật
+ “Chị ơi, vì sao
Hoa hồng lại khóc
Không phải đâu em
Đấy là hạt ngọc
Người gọi là sương
Sao đêm gởi xuống
Tặng cô hoa hồng”
(Bướm em hỏi chị).
+ Vẫn là bài thơ về tình bạn nhưng ở đây đã có sự lồng ghép thật tự nhiên một tri thức về đối tượng: giọt nước trên cành hoa hồng được gọi là “giọt sương”. Để mở mang khái niệm về nước, Phạm Hổ viết hẳn một bài thơ khác theo lối định nghĩa.
“Nước lên xuống: biển cả
Nước nằm im: ao hồ
Nước chảy xuôi: sông suối
Nước rơi đứng: trời mưa”
(Nước)
+ Phạm Hổ chấp nhận và tìm cách “thơ hóa”. Hướng giải quyết của ông là khai thác tối đa các phép nhân hóa, so sánh, xây dựng các hình ảnh liên tưởng độc đáo và vui tươi. Đọc bài thơ về cái đinh, ta ngỡ như đang tiếp xúc với một cậu bé vui nhộn, tự hào khi làm được một việc tốt. : “Cho chị treo gương
Cho em treo ảnh
Xong rồi hóm hỉnh
Nhô đầu nhìn quanh”
Cái chổi khác nào một cô bé thích làm đỏm: “Thích buộc nhiều thắt lưng
Cả đời không đi dép
Chổi múa dạo một vòng
Rác trong nhà biến sạch”
+ Phép so sánh trong trường hợp sau đây giúp các em nắm được đặc điểm của từng đồ vật: “Dao chỉ một lưỡi
Kéo có đến hai
Mỗi người một việc
Ai nào kém ai
Cả hai đều biết
Yêu ông đá mài”
Những câu thơ như thế không cầu kỳ, hoa mỹ nhưng tự nhiên, thiết thực. Đặt trong yêu cầu của nghệ thuật giáo dục cho thiếu nhi, hoàn toàn có thể khẳng định, đó là những câu thơ giá trị.
Phạm Hổ là một nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn từ trong sáng.
+ Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thức khác. Đó là hình thức hỏi – đáp, hình thức định nghĩa và hình thức trích dẫn. Hình thức hỏi - đáp xuất hiện nhiều trong thơ Phạm Hổ. Trong cuộc sống, trẻ em vẫn thường hay hỏi người lớn về nhiều điều. Hay hỏi là một nét tính cách đặc trưng, hệ quả tất yếu của một nhu cầu ham hiểu biết của trẻ. Người lớn trong trách nhiệm của mình cần phải giúp trẻ giải quyết những thắc mắc. Trả lời cho trẻ là cả một nghệ thuật giao tiếp mà không phải ai, lúc nào cũng làm được.
+ Trong những bài thơ hỏi – đáp của mình, Phạm Hổ khi thì sử dụng nhân vật loài vật, khi thì sử dụng nhân vật con người. Song dù sử dụng loại nhân vật nào thì ông cũng đều nêu ra được vấn đề mà trẻ em quan tâm, đáp án phù hợp với đối tượng. Giọng thơ tâm tình, nhẹ nhàng, có sức thuyết phục lớn.
Một ví dụ:
“Cua con hỏi mẹ
Dưới ánh trăng đêm
Cô lúa đang hát
Sao bỗng lặng im
Đôi mắt lim dim
Mẹ cua liền đáp
Chú gió đi xa
Lúa buồn không hát.
(Cua con hỏi mẹ).
Bài thơ trên gồm lời hỏi của cua con và lời đáp của cua mẹ. Cua mẹ đã giải thích với cua con rằng, vì chú gió đi xa nên cô lúa buồn, cô thôi không hát nữa. Lời giải thích này dễ được trẻ chấp nhận. Chuyện “cô lúa không hát” thấm đượm tình cảm con người.
Thực ra, cấu trúc hỏi - đáp được sử dụng nhiều trong thơ cho thiếu nhi. Hình thức này không phải là sáng tạo riêng của Phạm Hổ. Đóng góp của ông là ở chỗ đã sử dụng thành công, tạo ra những bài thơ hay như Ngủ rồi, Bướm em hỏi chị, Đất và hoa, Thỏ dùng máy nói… Sáng tạo riêng của Phạm Hổ chính là ở hình thức thơ định nghĩa và trích dẫn. Bài Nước vừa dẫn trên là một bài thơ theo hình thức định nghĩa. Dấu hai chấm tương đương với từ « là », tạo ra sự đồng nhất giữa hai đối tượng. Kiểu thơ định nghĩa giới hạn ở chức năng cung cấp khái niệm về đối tượng. Kiểu thơ trích dẫn được xây dựng trên cơ sở mô phỏng lời nói. Thuộc loại thơ này là nhóm bài có câu mở đầu « mẹ, mẹ ơi, cô bảo ».
Vd: « Mẹ, mẹ ơi, cô bảo
Cháu ơi, chơi với bạn
Cãi nhau là không vui
Cái mồm nó xinh thế
Chỉ nói điều hay thôi ! ».
Ở bài thơ này, câu mở đầu là lời đứa trẻ, các câu còn lại là lời cô giáo được trích dẫn. Toàn bộ bài thơ là lời đứa trẻ nói với mẹ khi ở trường về. Đến trường các em tiếp thu được nhiều điều mới lạ. Khi trở về nhà, các em không quên khoe với mẹ về những gì mà mình học được. Câu thơ « mẹ, mẹ ơi, cô bảo » chất chứa niềm vui, sự háo hức của đứa trẻ. Quả là, đọc những bài như thế, ta cũng dễ vui lây !
Làm thơ cho các em, Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu. Ông viết : “Viết thơ cho các em bé, theo tôi, rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi các em nhớ được là nhờ nhạc điệu ” Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc sắp xếp, tổ chức câu thơ, vần và nhịp. Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ. Nhịp thơ ông thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực. Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : “Từ từ / Khẽ mở / Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi / Sáng hồng…”. Bài Tàu dài lại gợi hình ảnh đoàn tàu nhiều toa, đang chuyển động một cách nhịp nhàng, đều đặn.
- Một đặc sắc khác của thơ Phạm Hổ là cách tạo nghĩa mới cho những âm thanh tự nhiên. Tiếng “ tí te…tí te” của xe chữa cháy được nhà thơ cảm nhận là tiếng sẵn sàng “có ngay… có ngay”(Xe chữa cháy), tiếng “xạch, xạch, xạch” của máy khâu là “sắp xong rồi, sắp xong rồi”(Máy khâu), còn tiếng “cục tác… cục tác” của cô gà mái là một thông báo vui trứng còn nhiều, đẻ hoài “không hết, không hết ”(Gà đẻ)… Cách tạo nghĩa này đã làm cho hình tượng thơ thêm phần sinh động, ý nghĩa. Cuộc sống cứ như đang rộn ràng lên, hối hả và tràn đầy sức sống.
=> Trong tương quan với các nhà thơ viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ là người viết nhiều và viết hay. Thơ cho lứa tuổi nhi đồng của ông có nhiều đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật. Nói tới ông là nói tới một nhà thơ của tình bạn, một cây bút với nhiều sáng tạo về hình thức biểu hiện. Ông thực sự có một vị trí quan trọng trong nền thơ cho thiếu nhi Việt Nam.
Văn xuôi
Đặc sắc nhất trong sáng tác của Phạm Hổlà bộ Chuyện hoa, chuyện quả. Đây là truyện viết theo lối cổ tích hiện đại. Tác giả kể về các sự tích loài hoa, loài quả và lí giải tại sao lại có thứ hoa thứ quả. Cũng như những cái tên mà hiện những cây, những quả đó đang có.
Trong mỗi câu chuyện bạn đọc sẽ gặp cunngf một lúc hai câu chuyện mà tác giả muốn thể hiện. Đó là chuyện về cây, hoa, quả và chuyện về con người. Thế giới hoa quả phong phú không chỉ gợi cho các m lòng yêu thiên nhiên mà còn kích thích các em trân trọng bảo vệ thiên nhiên.
Mỗi câu chuyện kể về một thứ cây. Tg quan sát đặc điểm bên ngoài dễ nhận biết và gọi tên bằng hình ảnh cụ thể ấn tượng nhưng cũng rất lãng mạn.
VD: Những bàn tay nhiều ngón (sự tích cây chuối), cái ô đỏ ( sự tích hoa râm bụt), những con ốc kì lạ (sự tích quả roi)…
Tg đã giải thích nguồn gốc xuất hiện, lí do của mỗi cái tên mà chúng mang, cũng như tính chất tác dụng của mỗi thứ cây hoa quả trong cuộc sống.
Tg cho rằng sự tích hoa quả bao giờ cũng gắn với một phương diện nào đó trong đời sống lao động, chiến đấu và tình cảm con người. Qua đó tác giả khẳng định rằng hoa quả thường là những kết tinh của tình cảm cao quý như tình mẹ con, tình anh em, tình bè bạn, tình thây trò…
Trong 50 câu chuyện kể về sự tích của 50 loài cây, hoa, quả tg có cách thể hiện khác nhau để các chuyện không trùng lặp. Mỗi câu chuyện luôn mới lạ hấp dẫn. Thế giới tự nhiên qua cái nhìn của ông trở nên sinh động qua các câu chuyện của mình Phạm Hổ mở rộng trí tưởng tượng và hứng thú khám phá cuộc sống thiên nhiên trong các em thiếu nhi,
Sự tích hoa thiên lí: Một con rắn vì mê tiếng sáo của một chàng trai nên đã biến thành một người phụ nữ giống hệt vợ anh. Khiến anh ta không thể nhận ra được. Chàng trai phải nhờ một cụ già nổi tiếng trong vùng về sự phân biệt phải trái xử lí giúp. Qua ba lần thử thách tinh tế của cụ già, cô vợ giả phải hiện nguyên hình là con rắn lục, bò nhanh vào bụi cây trốn mất. Vợ chồng chàng thổi sáo được đoàn tụ. “Một buổi chiều người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng hình giống ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt…” Người ta lấy tên thiên lí để đặt cho hoa để kỉ niệm cô gái đó tên là Lí, vì tình yêu mà có thể cách xa “trăm dặm nghìn dặm mà vẫn nhận ra chồng mình”…
Phạm Hổ rất tinh tế khi lựa chọn từ thiên nhiên phong phú những xhất liệu gợi hình gợi cảm, giàu ý nghiã xã hội. Cách đặc tả trái loòng boong: “ Chỉ lớn hơn quả hồng bì một tí. Da nó vàng mát. Cùi nó nhìn trong trong như ngọc và đặc biệ quả nào cũng mang một cái dấu như dấu móng tay của ai đó bấm vào” ( Sự tích quả loòng boong)
Tác giả đã diễn tả cái tình người này đặc biệt bằng thiên huyền thoại sống động, xuất pháttừ dấu hiệu độc đáo , cá biệt của một loại quả. Và qua đó ông cũng nhắc nhở các em thái độ trân trọng với thiên nhiên.
Chuyện vè hoa, về quả nhưng lại chính về chuyện con người. Qua mối câu chuyện, tg cố gắng gắn nối những chi tiết đẹp của cây với tình cảm và phẩm chất tốt đẹp của con người. Hoa phượng đỏ rực giống như nong xôi gấc mà ông thầy dạy võ đã giấu 5 học trò thân yêu của mình trong dó, đội lên đồi cao để giết chết tên giặc. Còn quả phượng giống thanh gươm xanh của các tráng sĩ ( sự tích hoa phượng), củ nhân sâm có dáng vẻ hình người và đó cũng chính là điều nhắc nhở với người đời sau về tình thầy trò ( sự tích cây nhân sâm)
Nhìn chung với lối kết thúc có hậu phù hợp với phong cách cổ tích và tâm lí trẻ thơ, chuyện hoa chuyện quả đã gây ấn tượng sâu sắc và sức hấp dẫn với đối với các em khơi mở trong các em những suy ngẫm về tình yêu thương, lòng nhân đạo và khả năng hướng thiẹn của con người.
VÕ QUẢNG
I. vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Võ Quảng sinh 1/3/1920 trong một gia đình nhà nho trung lưu ở xã đại hòa ,huyện đại lộc ,quảng nam ,đà nẵng
-15 tuổi học ở trường quốc học huế ,17 tuổi tham gia phong trào học sinh yêu nước ,gia nhập đoàn thanh niên dân chủ.19 tuổi gia nhập đoàn thanh niên phản đế . 21 tuổi bị pháp bắt giam ở nhà nho thừa phủ . . .
- Sau cách mạng tháng tám năm 1945 nổ ra ông được chính quyền việt minh cử làm ủy viên tư pháp thành phố đà nẵng ,khi quân pháp tái chiếm nam bộ ông được cử vào chức vụ phó chủ tịch ủy ban hành chính kháng chiến thành phố đà nẵng. Từ 1947 đến 1954 làm hội thẩm chính trị ,tòa án quân sự miền nam việt nam. Thời gian này ông cũng có sáng tác 1 số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi
- Sau khi tập kết ra bắc ông được điều về công tác ở chức vụ ủy viên ban nhi đồng trung ương ,phụ trách văn học cho thiếu nhi .Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức vụ giám đốc nhà xuất bản kim đồng một thời gan sau đó ông được cử làm giám đốc xưởng phim hoạt hình việt nam 1965 ông được kết nạp làm hội nhà văn vn .1968 ông về công tác tại hội văn hóa ,1971 về hội nhà văn vn và được phân công làm chủ tịch hội văn học thiếu nhi hội nhà văn vn
- Năm 2007 ông được trao tặng giải thưởng nhà nước về văn học thiếu nhi
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
- Võ quảng viết nhiều thể loại như thơ ,viết văn xuôi, kịch bản phim hoạt hình, viết cả tiểu luận , phê bình, kinh nghiệm và sáng tác văn học thiếu nhi .
- Nhà văn võ quảng là người viết nhiều truyện và thơ cho thiếu nhi với những tác phẩm như :
+truyện cái thăng (năm 1961)
+bài thơ thấy cái hoa nở(năm 1962)
+chỗ cây đa làng (năm 1964)
+nắng sớm (năm 1965)
+những chiếc áo ấm (1970)
+quê nội (năm 1974)
+tảng sáng (năm 1976)
II. NHỮNG THÀNH TỰU SÁNG TÁC CỦA VÕ QUẢNG
1. Thơ viết cho trẻ em
- là tác giả của một bộ truyện nổi tiếng võ quảng còn là nhà thơ với nhiều bài thơ hay cho lứa tuổi nhỏ
- Thơ võ quảng là thế giới của trẻ con và thế giới của hoa cỏ ,loài vật qua cách nhin của trẻ con
- Thơ của ông chủ yếu viết cho lứa tuổi mẫu giáo và đầu tiểu học .thơ võ quảng ít nói điều gì cao xa, to tát, trừu tượng mà ông chỉ nói những chuyện nhỏ nhẹ, bình thường, với giọng khiêm nhường nhiều khi vui hóm hỉnh nhưng thơ ông lại rất giàu ý vị giáo dục sâu sắc
a. thế giới thiên nhiên sinh động ,mới lạ và hấp dẫn
*những cảnh vật thiên nhiên
-võ quảng có những bức tranh thiên nhiên lộng lẫy dường như đủ cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều được ông thâu tóm những nét điển hình nhất của đất trời khi mùa xuân chợt đến qua một vườn xuân rực rỡ màu sắc với vẻ đẹp của
“hoa cải li ti
“Đốm vàng óng ánh
Hoa cà tim tím
Nõn nuột hoa bầu
Hoa ớt trắng phau
Xanh lơ hoa đỗ
Cà chua vừa độ
Đỏ mộng trĩu cành
Xanh ngắt hàng hành
Xanh lơ cải diếp’’
(ai cho em biết)
- Thiên nhiên như bừng tỉnh ,phô diễn ‘cái màu sắc quý ’cũng làm cho mùa xuân thêm tươi thắm - Những chi tiết được ông chọn lọc để miêu tả thiên nhiên thường có sức gợi, sức khái quát, ví dụ một thoáng thay đổi của đất trời khi mùa xuân chợt đến được ông miêu tả qua sự thức tỉnh kì diệu của chiếc chồi biếc
“Mầm non mắt lim dim
Cố nhìn qua kẽ lá
Thấy mây bay hối hả
Thấy lất phất mưa phùn ’
(mầm non)
cả đất trời xôn xao trong không khí tràn đầy sức
sống
‘vội bật chiếc vỏ rơi
Nó đứng dậy giữa trời
Khoác áo màu xanh biếc’
…
Mùa hạ được gợi tả qua nét vẽ về cảnh hố sen
‘hố sen sáng rực
Nh ư ngọn lửa hồng
Một chú bố nông
Mải mê đứng ngắm
Nước xanh thăm thẳm
Lồng lộng mây trời
Một cánh sen rơi
Rung rính mặt nước ‘’
(cổ một chỗ chơi)
Trong con mắt của nhà thơ ,mỗi mùa có một đặc trưng riêng ,vẻ đẹp riêng ,tác giả dí dỏm gợi bốn người chăm chỉ đầy trách nhiệm gửi tìm cho đất nước luôn mới mẻ
‘thay ca đổi kíp
Đổi mới non sông
Xuân ,hạ ,thu ,đông
Mỗi người một vẻ’
(bốn người)
b, Thế giới loài vật và cây cỏ
Vườn thơ võ quảng khá giàu về các loại chim thú và cây cỏ .trong thơ ông một xã hội chim ,thú rất đông vui và sinh động ;gần gũi với người là gà ,vịt ,trâu ,bò,lợn … xa hơn chim chào mào, cò, vạc, quạ, chim vàng anh những con vật ở rừng như thỏ ,nai ,cáo ,voi …dưới nước như bồ nông , ếch nhái …tất cả hợp lại một xã hội chim ,thú rất đông vui đầy tiếng kêu ,hát
2. VĂN XUÔI CỦA VÕ QUẢNG
Võ Quảng được biết đến trên tư cách một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Gần nửa thế kỉ cầm bút, ông đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của nền văn học thiếu nhi nước nhà. Ngoài tiểu thuyết và thơ, Võ Quảng còn là tác giả của nhiều truyện đồng thoại rất được bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích.
Toàn bộ truyện đồng thoại của Võ Quảng được tập hợp trong ba tập: Cái Mai (1967), Bài học tốt (1982), Những chiếc áo ấm (1987), với nhiều tác phẩm tiêu biểu như Chuyến đi thứ hai, Trong một hồ nước, Mắt Giếc đỏ hoe, Những chiếc áo ấm, Đò ngang, Anh Cút lủi, Đêm biểu diễn... Những sáng tác này, từ nhiều năm nay đã trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ bạn đọc tuổi thơ.
Võ Quảng đến với truyện đồng thoại trong bối cảnh thể loại này đã có nhiều thành tựu qua sự sáng tạo của Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Nguyễn Đình Thi... Với tư cách một người viết chuyên nghiệp, ông thực sự muốn thử thách mình ở một thể loại mới và tạo được dấu ấn nghệ thuật riêng. Cái Mai, Bài học tốt và Những chiếc áo ấm đã thể hiện những nét bản sắc gì của ngòi bút Võ Quảng ở lĩnh vực truyện đồng thoại?
a. Truyện đồng thoại Võ Quảng mang đậm chất dân gian
Như đã biết, truyện đồng thoại vốn nảy sinh trong đời sống dân gian. Từ thực tiễn đời sống của mình, quần chúng nhân dân qua bao đời đã sáng tạo nên rất nhiều những đồng thoại hay và đẹp. Khi sứ mệnh sáng tạo văn học cho thiếu nhi được trao cho các nhà văn, nhiều người đã tiếp tục sáng tác đồng thoại và không quên “lấy đồng thoại dân gian làm chất liệu sáng tác của mình”
Ở Việt Nam, hướng đi này được thể hiện rõ nhất qua chính trường hợp Võ Quảng
Thống kê từ toàn bộ sáng tác của ông, thấy có đến gần 50% số tác phẩm có quan hệ gần gũi với nguồn truyện kể dân gian với những biểu hiện đa dạng, phong phú và theo những mức độ ảnh hưởng khác nhau.
Trước hết, chất dân gian trong truyện đồng thoại của Võ Quảng thể hiện ở nội dung giải thích đặc điểm tự nhiên của loài vật. Trong truyện kể truyền thống, những sáng tác có nội dung này được xếp thành một bộ phận của thể loại truyện cổ tích, gọi là truyện cổ tích loài vật. Văn học dân gian, về bản chất là những sáng tác chung cho cả cộng đồng. Tuy vậy, vẫn cần thấy rằng, truyện cổ tích loài vật được sáng tạo ra là nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, nhu cầu khám phá thế giới loài vật của các em. Vì sao lông Quạ màu đen? Vì sao Trâu không có hàm răng trên?... Những câu hỏi kiểu như thế vẫn luôn được các em đặt ra cùng với niềm háo hức mong chờ được cắt nghĩa.
Võ Quảng đến với truyện đồng thoại trong bối cảnh thể loại này đã có nhiều thành tựu qua sự sáng tạo của Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Nguyễn Đình Thi... Với tư cách một người viết chuyên nghiệp, ông thực sự muốn thử thách mình ở một thể loại mới và tạo được dấu ấn nghệ thuật riêng. Cái Mai, Bài học tốt và Những chiếc áo ấm đã thể hiện những nét bản sắc gì của ngòi bút Võ Quảng ở lĩnh vực truyện đồng thoại?
Khi giải thích đặc điểm tự nhiên của loài vật, Võ Quảng vẫn tiếp tục con đường nghệ thuật dân gian. Ông cũng đưa ra những lời giải thích ngộ nghĩnh, phù hợp với vốn kinh nghiệm và “cái lí” của trẻ em. Chẳng hạn, Mắt Giếc đỏ hoe vì khóc nhiều, Mèo sợ nước nên chỉ tắm khô, tiếng hú của Vượn là dư âm tiếng kêu đau thương về sự mất mát của đồng loại... Cách giải thích như thế, nhìn chung tạo được niềm tin ngây thơ nơi những tâm hồn con trẻ.
So với truyện dân gian, truyện đồng thoại của Võ Quảng thường có nội dung phong phú hơn. Nhà văn không đơn thuần dừng lại ở việc giải thích mà thường kết hợp với những nội dung khác, đặc biệt là nội dung giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà văn phải có những lựa chọn trong việc xây dựng tình huống, sự việc có khả năng thể hiện đa chủ đề. Có thể quan sát điều này qua truyện Bài học tốt. Đây là tác phẩm có sự gần gũi với truyện dân gian Sự tích vết rạn trên mai Rùa.
Theo truyện dân gian, Rùa đến nhà Khỉ ăn giỗ. Vì nhà Khỉ ở trên cao nên Rùa phải “ngậm chặt đuôi Khỉ” để Khỉ đưa lên trên nhà. Thấy họ hàng nhà Khỉ chạy ra chào, Rùa quên phắt mình đang ở trên cao, mở miệng ra chào và thế là bị rơi xuống đất khiến cho cái mai bị vỡ ra thành nhiều mảng... (Nguồn truyện: Truyện cổ tích về các loài vật, Nxb. Giáo dục, 2002).
Võ Quảng cũng sử dụng tình huống tai nạn, song theo một cách khác, nhiều hàm ý hơn. Trước hết, cần thấy nhân vật chú Rùa trong truyện Bài học tốt của Võ Quảng có đường nét và cá tính hơn. Đó là một chú Rùa ham thích đi đây, đi đó song phải tính hay ngại. Vì thế, chú cứ lần lữa, tìm đủ lí do để trì hoãn việc lên đường: nào là, mùa đông thì rét mướt, mùa xuân vẫn còn là “đứa em của mùa đông”, mùa hè lại bụi bặm... Lên đường rồi thì chú mất dần niềm hăng hái. “Ngày đầu Rùa chạy, như có ai đẩy sau lưng.
Ngày thứ hai, Rùa chạy chậm. Ngày thứ ba, Rùa đi. Ngày thứ tư, Rùa đi chậm. Ngày thứ năm, Rùa lê từng bước...”. Ở hình tượng này, chúng ta dễ dàng bắt gặp những đường nét cá tính trẻ con. Câu chuyện về một chú Rùa đi bám rốt cục, đã gợi lên biết bao điều về thế giới tuổi thơ. Các em đọc truyện hẳn cũng thấy bóng dáng của chính cuộc sống của mình ở trong đó, mà thêm mến, thêm yêu hình tượng và câu chuyện của nhà văn.
Từ Bài học tốt, nhìn rộng ra, thấy nhiều truyện của Võ Quảng đã được “hoài thai” trên cơ sở cốt truyện dân gian. Khuynh hướng khai thác cốt truyện dân gian trong văn học viết cho thiếu nhi có thể nói là khá phổ biến. Mỗi nhà văn có những cách khai thác riêng. Võ Quảng không “tiểu thuyết hóa” như Tô Hoài hay chỉ lẩy ra một chi tiết, một hình tượng rồi viết nên một câu chuyện mới như Phạm Hổ. Ông quan tâm chủ yếu đến các cốt truyện cổ tích loài vật. Từ đó, nhà văn nhào nặn, phả vào tác phẩm của mình hơi thở cuộc sống hiện đại.
Như truyện Anh Cút lủi chẳng hạn, lí do mà con chim Cút có “thân hình trụi lủi”, phải cảnh chui bờ lủi bụi, theo nhà văn là do biếng lười lao động. Chương trình xây dựng nhà cửa đã có nhưng anh Cút lủi cứ lần khân nên mãi cứ nằm trong dự định.
Cốt truyện dân gian qua tay các nhà văn đã được xử lí theo hướng gia tăng các yếu tố hiện thực, vừa vẫn giữ được vẻ đẹp kì ảo của cái sắc màu “ngày xửa, ngày xưa”, vừa gợi lên được một cái gì đó rất gần gụi, thân quen. Thế giới loài vật trong trường hợp này đã được đặt trong góc nhìn hiện đại.
Chất dân gian trong truyện đồng thoại của Võ Quảng còn được thể hiện qua việc tác giả sử dụng kiểu bố cục tác phẩm theo hai phần trước sau rõ ràng. Mỗi phần có một chức năng riêng, cụ thể: phần diễn truyện mô tả sự việc, phần kết truyện nêu lên hệ quả sự việc.
Lối bố cục này là hoàn toàn phù hợp với tầm đón nhận của các em, nhất là các em tuổi nhi đồng. Điểm mới trong các kết truyện của Võ Quảng là việc đưa thêm lời người kể chuyện. Chẳng hạn, “Cho đến ngày nay, khi các bạn đi qua một cánh rừng vẫn còn nghe tiếng hú của Vượn...” (Vượn hú) hay “Riêng về cái mai, mời các bạn hãy xem thật kĩ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật” (Bài học tốt)... Loại lời văn này không có trong truyện kể truyền thống do chủ
trương trần thuật theo ngôi thứ ba với sắc thái giọng kể khách quan, trung hòa. Lời kết ở truyện Võ Quảng hé lộ một nét mới về giọng điệu đồng thoại hiện đại. Đó là giọng điệu trò chuyện thân mật, có tính chất mời mọc người nghe tham gia vào câu chuyện. Nói đồng thoại hiện đại là câu chuyện dành cho trẻ em như vậy là có cơ sở!
b. Mở rộng chức năng phản ánh hiện thực
Đồng thoại thuộc hệ thống những truyện tưởng tượng, không phản ánh cuộc sống theo quy luật tả thực. Tuy nhiên, trong cố gắng đổi mới thể loại, nhiều nhà văn Việt Nam giai đoạn chống Mỹ đã mở rộng chức năng phản ánh hiện thực cho truyện đồng thoại. Lịch sử văn học dân tộc đã thừa nhận sự thành công của không ít tác phẩm về phương diện này. Có thể kể tới Cô Bê 20 (Văn Biển), Chim Chích lạc rừng (Tô Hoài), Chuyện chú Trống Choai (Hải Hồ)... ở những tác phẩm này, bút pháp đồng thoại có sự kết hợp với bút pháp hiện thực trên cơ sở không phá vỡ những nguyên tắc thể loại.
Bản thân Võ Quảng cũng cho rằng, truyện đồng thoại có khả năng phản ánh cuộc sống mới, con người mới. Ông viết trong Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi như sau: “Truyện đồng thoại có đầy đủ khả năng phản ánh con người mới, cuộc sống mới, ở khắp nơi, trong một gia đình, dưới một mái trường, ở đồng ruộng, hầm mỏ, công trường, bất cứ nơi nào trên mặt đất hoặc còn bay bổng lên trăng sao, rộng ra khắp vũ trụ, hoặc giữa một thế giới vô cùng tinh vi khó thấy, thế giới nội tâm của con người”
Tác phẩm đầu tiên của ông được viết theo hướng này của truyện Cái Mai. Đó là một tác phẩm đồng thoại “dài hơi”, sử dụng ngôi kể thứ nhất, tái hiện cuộc đời, số phận cái Mai (một dụng cụ lao động). Qua hành trình số phận của nhân vật, nhà văn lần lượt tái hiện cuộc sống đau thương của con người dưới chế độ cũ, niềm hạnh phúc trong cuộc sống hồ hởi, khẩn trương xây dựng miền Bắc XHCN. Truyện mang đậm hơi thở cuộc sống thời đại, cho thấy một cảm hứng tràn đầy trong mỗi trang viết của nhà văn. Cảm hứng này ta còn bắt gặp trong nhiều sáng tác khác, nhất là ở Chuyến đi thứ hai.
Lấy cảm hứng từ truyện dân gian Cóc kiện Trời, Võ Quảng kể về anh Cóc Tía quyết định nối gót Cụ Tổ lên kiện Trời để đòi mưa cho hạ giới. Đường xa vạn dặm, dốc núi cheo leo, sông sâu thăm thằm nhưng Cóc Tía không hề nản chí. Thế rồi, nhờ gặp được Cò Bạch mà Cóc Tía thấy không cần phải lên kiện Trời nữa. Dưới đôi cánh của Cò Bạch, Cóc Tía đã nhìn thấy những con mương ngang dọc, những hồ chứa nước, những trạm thuỷ nông phun nước ào ào. Tất cả những hình ảnh ấy, theo Cò Bạch chính là thành quả của người lao động: “nhân dân vùng này, trong mấy năm qua đã đắp những đập cao ngăn nước, cho nước chảy vào các ao hồ. Nước các ao hồ dâng lên. Họ lại đào những con mương lớn nhỏ, cho nước chảy đến tưới khắp cánh đồng. Ông Trời không mưa nhưng họ vẫn có thừa nước để tưới ruộng”.
Không dừng lại ở việc phản ánh cuộc sống lao động, truyện đồng thoại của Võ Quảng còn mở rộng sang cả đề tài chiến tranh. Đó là trường hợp truyện Hòn Đá, một tác phẩm gợi lên kí ức đau thương về chiến tranh. Sự tàn khốc của chiến tranh, ranh giới mong manh giữa cái sống và cái chết đã được Đá Cuội tái hiện qua những dòng kể ngắn ngủi cho các bạn Đồng Hồ và Lịch Treo. Từ rừng sâu, Đá Cuội đã trở về trong ngôi nhà nhỏ, trở thành người kể chuyện cổ tích chiến tranh để “gợi lại hình ảnh của anh, nhắc nhở chung quanh cần sống như người đã mất”... Truyện đồng thoại của Võ Quảng như vậy đã hướng vào những hiện thực lớn của đời sống đất nước.
Chúng ta ghi nhận những cố gắng nói trên nhằm mục đích đổi mới thể loại của Võ Quảng và các nhà văn đương thời. Với sự đổi mới này, truyện đồng thoại Việt Nam đã có một giai đoạn sáng tác thật đẹp đẽ, tham gia tích cực vào việc cổ vũ sự nghiệp lớn lao của dân tộc. Chúng tôi xem, đó là thành quả rất đáng trân trọng của một thời đã qua và cần nghiên cứu để phát huy.
c. Mang dáng dấp truyện ngụ ngôn
Viết cho các em, nhà văn Võ Quảng rất chú trọng đến nội dung giáo dục. Theo ông, người viết cho trẻ em phải đồng thời là một nhà sư phạm. Trung thành với quan điểm nghệ thuật này, Võ Quảng đã mang vào đồng thoại những bài học giáo dục nhằm góp phần bồi dưỡng đời sống tâm hồn cho các em. Ở đây, ông cũng như những nhà văn viết cho thiếu nhi khác phải đối diện với
một thử thách nghệ thuật: làm sao để đạt được sự hoà giải giữa cảm quan người lớn với tâm hồn trẻ thơ. Trẻ em vốn giàu sức mạnh bản năng tự nhiên, thích tự do rộng rãi, trong lúc người lớn lại muốn đưa các em vào khuôn phép chuẩn mực. Điều này, ở ta, khi văn hoá cộng đồng còn tỏ rõ sức mạnh, khi văn hoá cá nhân chưa tìm được tiếng nói khẳng định thì điều này càng bộc lộ rõ. Để giải quyết điều này, Võ Quảng tránh con đường dùng quyền uy người lớn để áp đặt, cao giọng với các em. Ông lấy cái các em thích làm cơ sở cho những sáng tạo. Không phải tất cả nhưng đa phần tác phẩm của ông được các em đón nhận như một thứ trò chơi đầy cảm hứng. Các em có thể đóng vai, hoá thân vào các nhân vật và những cuộc chơi đầy ắp tiếng cười nở ra, lan toả...
-Đã có lần nhà văn Vũ Ngọc Bình nói đại ý rằng, một số đồng thoại của Võ Quảng mang “dáng dấp của những ngụ ngôn”(3). Chúng tôi đồng tình với nhận xét này và xem đó như một đặc điểm của truyện đồng thoại Võ Quảng. Đúng là, trong một số tác phẩm đồng thoại, Võ Quảng bộc lộ rõ xu hướng triết lí. Thi thoảng, ông để cho nhân vật cao giọng, chẳng hạn như lời Vịt Bầu nói với Cóc Tía: “Đối với tôi, sống có nghĩa là bơi” (Chuyến đi thứ hai).
Nhưng căn bản, ông để cho nội dung triết lí toát lên từ bản thân hình tượng. Theo tôi, thể hiện rõ nhất điều này là truyện Đò Ngang. Nhân vật của câu chuyện là một anh Đò Ngang suốt ngày đêm đưa khách qua sông. Đò Ngang làm rất tốt công việc của mình nhưng tự đáy lòng, Đò Ngang khao khát được như Thuyền Mành đi đây, đi đó. Khao khát của Đò Ngang thật đáng trân trọng vì nó phản ảnh nhu cầu mở mang hiểu biết để được lớn lên. Thuyền Mành đã chỉ cho Đò Ngang hiểu được thế nào là “lớn”, cái lớn không cần tìm ở đâu xa mà ngay trong ý nghĩa công việc hiện tại của mình. “Mỗi khi Đò Ngang cập bến, mọi người đều ùa ra reo mừng. Hỏi ở đây có người nào được đón tiếp như vậy? Đò Ngang cũng được lớn lên. Cái lớn đó không đo được bằng cân hay bằng thước...”. Triết lí tạo chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm, nới rộng đối tượng bạn đọc. Song lắm khi, triết lí lại hạn chế ngay chính bạn đọc nhỏ tuổi của nhà văn. Đây thực là một cái khó của nghề viết văn cho trẻ!
d. Truyện đồng thoại Võ Quảng ngắn gọn, ngôn từ giàu hình ảnh...
-Truyện đồng thoại của Võ Quảng thường ngắn gọn. Đặc điểm này đã chi phối tới việc tổ chức tác phẩm của nhà văn. Trong mỗi tác phẩm, Võ Quảng thường chỉ xây dựng một tình huống, trần thuật và miêu tả bằng những câu văn hết sức chắt lọc. Tả cảnh núi đồi mùa thu, ông chỉ viết hai câu: “Nhìn ra, mây đùn tan biến. Đồi núi trải ra như đàn rùa lóp ngóp và xa rất xa, trên một quả núi cao, một lâu đài hiện ra như một hòn ngọc” (Bài học tốt). Tả cảnh thiên nhiên tiết giêng hai, ông cũn
Sau CMT8 1945
VH thiếu nhi
Nghĩa hẹp: gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi.
Nghiã rộng: gồm những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi.
Ở Việt Nam đầu thế kỉ XX bắt đầu xuất hiện các tác phẩm vh viết cho các em nhưng chỉ sau 1945 nền vh thiếu nhi mới chính thức hình thành. Đến nay trải qua nhiều thăng trầm, vh thiếu nhi VN đã phát triển phong phú, đa dạng và thực sự trở thành một bộ phận quan trọng của nền VHDT.
Một số tác giả tiêu biểu
Phạm Hổ
Võ Quảng
Trần Đăng Khoa
Phạm Hổ
I. Vài nét về tác gỉa, tác phẩm
1. Tiểu sử
- Sinh ngày 28–11-1926 tại An Nhơn, Bình Định.
- Thuở nhỏ theo học trường làng, sau theo
Người anh trai là Phạm Văn Kí ra học tiểu học ở
Huế, rồi trung học ở Quy Nhơn
- 1943 đỗ bằng thành chung, chưa kịp thi tú
tài CMT8 thành công. Ông theo CM và hoạt động
văn nghệ từ đó.
- 1955 ông tập kết ra Bắc, là một trong những thành
viên sáng lập nxb Kim Đồng
- Ông sáng tác nhều thể loại cho cả người lớn và trẻ em nhưng ông có
sự đóng góp to lớn trong vh thiếu nhi nước nhà.
- Ông đã nhận nhiều giải thưởng Nhà nước về VHNT. TP của ông được
giới thiệu ở các nước: Anh, Trung Quốc, Pháp, Ý...
Những tác phẩm chính đã xuất bản: Những ngày thân ái (tập thơ, 1957); Ra khơi (tập thơ, 1960); Đi xa (tập thơ, 1970); Những ô cửa, những nẻo đường (tập thơ, 1976); Vườn xoan (chuyện ngắn, 1961); Tình thương (tiểu thuyết, 1964 tái bản 1974); Chú bò tìm bạn (tập thơ, 1970 tái bản 1996); Ngựa thần từ đâu đến (tập chuyện, 1986); Chuyện hoa, chuyện quả ( toàn bộ 6 tập từ 1971-1994); Cất nhà giữa hồ (tập chuyện cổ tích, 1995); Nàng tiên nhỏ thành ốc (bộ ba vở kịch in 1980, tái bản 1993) và nhiều tập thơ, tập chuyện, tập kịch khác viết cho thiếu nhi.
2. Sáng tác: gồm 3 mảng lớn: Thơ, truyện, kịch
* Thơ cho thiếu nhi
- Thơ ông vui, ngộ nghĩnh, giàu tưởng tượng, những chuyện lạ trở nên chân thực trong thơ ông
Cửa lụa
+ Những chi tiết hồn nhiên, ngộ nghĩnh được sử dụng nhiều trong thơ Phạm Hổ. Ai đã đọc Ngủ rồi, Chơi ú tim, Ngựa con… hẳn khó có thể quên được những câu nói, những suy nghĩ đáng yêu của con trẻ. Trả lời câu hỏi của mẹ : Đã ngủ chưa đấy hả ?cả đàn gà con nhao nhao : “Ngủ cả rồi đấy ạ !”. Ngủ rồi mà vẫn “ nhao nhao” thì chỉ có trẻ con mới làm được. Cũng chỉ trẻ con mới có kiểu lý luận này :
Không mình nấp giỏi thật
Lỗi chỉ tại cái đuôi ! (Chơi ú tim)…
+ Đôi khi, Phạm Hổ cũng đưa cả nét dí dỏm của người lớn vào thơ.
Bài thơ Soi gương là một ví dụ. “ Có ai đang khóc nhè
Mà soi gương không bố ?
Một đứa khóc đủ rồi
Soi chi thành hai đứa”
Bài thơ có cái hồn nhiên của đứa trẻ (câu hỏi), lại có cái hóm hỉnh của người bố (câu trả lời). Chất hồn nhiên, chất dí dỏm kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ thêm phần đáng yêu.
Mỗi bài thơ là câu chuyện nhỏ xinh, tiếng cười hóm hỉnh, sảng khoái, thế giới sự vật hiện lên đáng yêu ngộ nghĩnh như trong thế giới tưởng tuợng của các bé.
Thơ ông đề cập tới nhiều vấn đề về tình cảm gia đình, tình yêu đất nước.
+ Ông vẽ lên bức tranh quê hương thân thuộc đầy màu sắc:
...Vườn quê ta nghìn năm
Bao đời nay thân thuộc
Một màu xanh êm đềm
Trăm hương thơm vị ngọt
Nội dung bao trùm nhất thơ ông là tình bạn. Điều dễ nhận thấy là thơ Phạm Hổ nói nhiều về chủ đề tình bạn. Phạm Hổ thừa nhận: “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống con người. Trong hơn 10 tập thơ viết cho các em, đã có 6 tập”. Mối quan tâm của tác giả là có cơ sở hiện thực.
+ Dấu hiệu nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ trước hết là ở việc đặt tên cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào… Đi vào văn bản, ta thấy cảm hứng tình bạn xuyên thấm ở hầu hết mọi bài thơ, tập thơ. Dù viết về điều gì, Phạm Hổ cũng đều gợi lên cho các em một câu chuyện tình bạn. Một chú bò đi lang thang trong chiều với tiếng “ậm…ò…” đã trở thành hình ảnh đáng yêu trong nỗi thiết tha gọi bạn.
+ Bài thơ này được Phạm Hổ viết vào năm 1952. Gợi nguồn cảm hứng cho nhà thơ là hình ảnh những chú bò chiều chiều ra sông uống nước. Đâu đó trong không gian chiều muộn vang vọng tiếng “ ậm… ò…”. Tứ thơ chợt đến, bài thơ hiện ra sau những thăng hoa của cảm xúc.
“Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai
Bò chào: - kìa anh bạn
Lại gặp anh ở đây!
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu Cứ ngoái trước nhìn sau
Am…ò tìm gọi mãi…”.
Trong cảm quan dân gian, chú bò là biểu tượng của tính lơ ngơ (Lơ ngơ như bò đội nón). Trong thơ Phạm Hổ, chú bò vẫn có cái lơ ngơ nhưng thật đáng yêu. Đáng yêu ở hành vi biết chào hỏi. Đáng yêu ở hành vi thiết tha gọi bạn…
+ Bài thơ Chú bò tìm bạn được xem là tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Hổ. Sau bài thơ này, cảm hứng tình bạn như một dòng chảy tuôn trào mang những hạt phù sa màu mỡ vào cánh đồng thơ Phạm Hổ. Kết quả, cánh đồng thơ ấy cứ lấp lánh lên những sắc màu đáng yêu của tình bạn. Đúng là với Phạm Hổ, thế giới được cấu trúc theo quan hệ tình bạn. Cái rế là bạn của cái chảo, cái nồi.
“ Chảo, nồi đang bận nấu
Rế ngồi bên đợi chờ”
Con chó, con mèo nào có ghét nhau. Chúng chơi với nhau thật thân thiết “ Rủ nhau chơi ú tim
Giờ đến phiên cho trốn
Mèo đảo mắt tìm quanh
Chó nấp đâu giỏi gớm
Bỗng kìa chỗ khe tủ
Chó để lộ cái đuôi
Rón rén mèo đến nơi
Oà chộp ngay lưng bạn …”(Chơi ú tim).
Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này không ngoài mục đích tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
- Cùng với nội dung tình bạn, Phạm Hổ còn muốn cung cấp cho các em những hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ông giới thiệu cho các em tên gọi hay đặc điểm hình thức, ích dụng của sự vật
+ “Chị ơi, vì sao
Hoa hồng lại khóc
Không phải đâu em
Đấy là hạt ngọc
Người gọi là sương
Sao đêm gởi xuống
Tặng cô hoa hồng”
(Bướm em hỏi chị).
+ Vẫn là bài thơ về tình bạn nhưng ở đây đã có sự lồng ghép thật tự nhiên một tri thức về đối tượng: giọt nước trên cành hoa hồng được gọi là “giọt sương”. Để mở mang khái niệm về nước, Phạm Hổ viết hẳn một bài thơ khác theo lối định nghĩa.
“Nước lên xuống: biển cả
Nước nằm im: ao hồ
Nước chảy xuôi: sông suối
Nước rơi đứng: trời mưa”
(Nước)
+ Phạm Hổ chấp nhận và tìm cách “thơ hóa”. Hướng giải quyết của ông là khai thác tối đa các phép nhân hóa, so sánh, xây dựng các hình ảnh liên tưởng độc đáo và vui tươi. Đọc bài thơ về cái đinh, ta ngỡ như đang tiếp xúc với một cậu bé vui nhộn, tự hào khi làm được một việc tốt. : “Cho chị treo gương
Cho em treo ảnh
Xong rồi hóm hỉnh
Nhô đầu nhìn quanh”
Cái chổi khác nào một cô bé thích làm đỏm: “Thích buộc nhiều thắt lưng
Cả đời không đi dép
Chổi múa dạo một vòng
Rác trong nhà biến sạch”
+ Phép so sánh trong trường hợp sau đây giúp các em nắm được đặc điểm của từng đồ vật: “Dao chỉ một lưỡi
Kéo có đến hai
Mỗi người một việc
Ai nào kém ai
Cả hai đều biết
Yêu ông đá mài”
Những câu thơ như thế không cầu kỳ, hoa mỹ nhưng tự nhiên, thiết thực. Đặt trong yêu cầu của nghệ thuật giáo dục cho thiếu nhi, hoàn toàn có thể khẳng định, đó là những câu thơ giá trị.
Phạm Hổ là một nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn từ trong sáng.
+ Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thức khác. Đó là hình thức hỏi – đáp, hình thức định nghĩa và hình thức trích dẫn. Hình thức hỏi - đáp xuất hiện nhiều trong thơ Phạm Hổ. Trong cuộc sống, trẻ em vẫn thường hay hỏi người lớn về nhiều điều. Hay hỏi là một nét tính cách đặc trưng, hệ quả tất yếu của một nhu cầu ham hiểu biết của trẻ. Người lớn trong trách nhiệm của mình cần phải giúp trẻ giải quyết những thắc mắc. Trả lời cho trẻ là cả một nghệ thuật giao tiếp mà không phải ai, lúc nào cũng làm được.
+ Trong những bài thơ hỏi – đáp của mình, Phạm Hổ khi thì sử dụng nhân vật loài vật, khi thì sử dụng nhân vật con người. Song dù sử dụng loại nhân vật nào thì ông cũng đều nêu ra được vấn đề mà trẻ em quan tâm, đáp án phù hợp với đối tượng. Giọng thơ tâm tình, nhẹ nhàng, có sức thuyết phục lớn.
Một ví dụ:
“Cua con hỏi mẹ
Dưới ánh trăng đêm
Cô lúa đang hát
Sao bỗng lặng im
Đôi mắt lim dim
Mẹ cua liền đáp
Chú gió đi xa
Lúa buồn không hát.
(Cua con hỏi mẹ).
Bài thơ trên gồm lời hỏi của cua con và lời đáp của cua mẹ. Cua mẹ đã giải thích với cua con rằng, vì chú gió đi xa nên cô lúa buồn, cô thôi không hát nữa. Lời giải thích này dễ được trẻ chấp nhận. Chuyện “cô lúa không hát” thấm đượm tình cảm con người.
Thực ra, cấu trúc hỏi - đáp được sử dụng nhiều trong thơ cho thiếu nhi. Hình thức này không phải là sáng tạo riêng của Phạm Hổ. Đóng góp của ông là ở chỗ đã sử dụng thành công, tạo ra những bài thơ hay như Ngủ rồi, Bướm em hỏi chị, Đất và hoa, Thỏ dùng máy nói… Sáng tạo riêng của Phạm Hổ chính là ở hình thức thơ định nghĩa và trích dẫn. Bài Nước vừa dẫn trên là một bài thơ theo hình thức định nghĩa. Dấu hai chấm tương đương với từ « là », tạo ra sự đồng nhất giữa hai đối tượng. Kiểu thơ định nghĩa giới hạn ở chức năng cung cấp khái niệm về đối tượng. Kiểu thơ trích dẫn được xây dựng trên cơ sở mô phỏng lời nói. Thuộc loại thơ này là nhóm bài có câu mở đầu « mẹ, mẹ ơi, cô bảo ».
Vd: « Mẹ, mẹ ơi, cô bảo
Cháu ơi, chơi với bạn
Cãi nhau là không vui
Cái mồm nó xinh thế
Chỉ nói điều hay thôi ! ».
Ở bài thơ này, câu mở đầu là lời đứa trẻ, các câu còn lại là lời cô giáo được trích dẫn. Toàn bộ bài thơ là lời đứa trẻ nói với mẹ khi ở trường về. Đến trường các em tiếp thu được nhiều điều mới lạ. Khi trở về nhà, các em không quên khoe với mẹ về những gì mà mình học được. Câu thơ « mẹ, mẹ ơi, cô bảo » chất chứa niềm vui, sự háo hức của đứa trẻ. Quả là, đọc những bài như thế, ta cũng dễ vui lây !
Làm thơ cho các em, Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu. Ông viết : “Viết thơ cho các em bé, theo tôi, rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi các em nhớ được là nhờ nhạc điệu ” Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc sắp xếp, tổ chức câu thơ, vần và nhịp. Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ. Nhịp thơ ông thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực. Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : “Từ từ / Khẽ mở / Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi / Sáng hồng…”. Bài Tàu dài lại gợi hình ảnh đoàn tàu nhiều toa, đang chuyển động một cách nhịp nhàng, đều đặn.
- Một đặc sắc khác của thơ Phạm Hổ là cách tạo nghĩa mới cho những âm thanh tự nhiên. Tiếng “ tí te…tí te” của xe chữa cháy được nhà thơ cảm nhận là tiếng sẵn sàng “có ngay… có ngay”(Xe chữa cháy), tiếng “xạch, xạch, xạch” của máy khâu là “sắp xong rồi, sắp xong rồi”(Máy khâu), còn tiếng “cục tác… cục tác” của cô gà mái là một thông báo vui trứng còn nhiều, đẻ hoài “không hết, không hết ”(Gà đẻ)… Cách tạo nghĩa này đã làm cho hình tượng thơ thêm phần sinh động, ý nghĩa. Cuộc sống cứ như đang rộn ràng lên, hối hả và tràn đầy sức sống.
=> Trong tương quan với các nhà thơ viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ là người viết nhiều và viết hay. Thơ cho lứa tuổi nhi đồng của ông có nhiều đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật. Nói tới ông là nói tới một nhà thơ của tình bạn, một cây bút với nhiều sáng tạo về hình thức biểu hiện. Ông thực sự có một vị trí quan trọng trong nền thơ cho thiếu nhi Việt Nam.
Văn xuôi
Đặc sắc nhất trong sáng tác của Phạm Hổlà bộ Chuyện hoa, chuyện quả. Đây là truyện viết theo lối cổ tích hiện đại. Tác giả kể về các sự tích loài hoa, loài quả và lí giải tại sao lại có thứ hoa thứ quả. Cũng như những cái tên mà hiện những cây, những quả đó đang có.
Trong mỗi câu chuyện bạn đọc sẽ gặp cunngf một lúc hai câu chuyện mà tác giả muốn thể hiện. Đó là chuyện về cây, hoa, quả và chuyện về con người. Thế giới hoa quả phong phú không chỉ gợi cho các m lòng yêu thiên nhiên mà còn kích thích các em trân trọng bảo vệ thiên nhiên.
Mỗi câu chuyện kể về một thứ cây. Tg quan sát đặc điểm bên ngoài dễ nhận biết và gọi tên bằng hình ảnh cụ thể ấn tượng nhưng cũng rất lãng mạn.
VD: Những bàn tay nhiều ngón (sự tích cây chuối), cái ô đỏ ( sự tích hoa râm bụt), những con ốc kì lạ (sự tích quả roi)…
Tg đã giải thích nguồn gốc xuất hiện, lí do của mỗi cái tên mà chúng mang, cũng như tính chất tác dụng của mỗi thứ cây hoa quả trong cuộc sống.
Tg cho rằng sự tích hoa quả bao giờ cũng gắn với một phương diện nào đó trong đời sống lao động, chiến đấu và tình cảm con người. Qua đó tác giả khẳng định rằng hoa quả thường là những kết tinh của tình cảm cao quý như tình mẹ con, tình anh em, tình bè bạn, tình thây trò…
Trong 50 câu chuyện kể về sự tích của 50 loài cây, hoa, quả tg có cách thể hiện khác nhau để các chuyện không trùng lặp. Mỗi câu chuyện luôn mới lạ hấp dẫn. Thế giới tự nhiên qua cái nhìn của ông trở nên sinh động qua các câu chuyện của mình Phạm Hổ mở rộng trí tưởng tượng và hứng thú khám phá cuộc sống thiên nhiên trong các em thiếu nhi,
Sự tích hoa thiên lí: Một con rắn vì mê tiếng sáo của một chàng trai nên đã biến thành một người phụ nữ giống hệt vợ anh. Khiến anh ta không thể nhận ra được. Chàng trai phải nhờ một cụ già nổi tiếng trong vùng về sự phân biệt phải trái xử lí giúp. Qua ba lần thử thách tinh tế của cụ già, cô vợ giả phải hiện nguyên hình là con rắn lục, bò nhanh vào bụi cây trốn mất. Vợ chồng chàng thổi sáo được đoàn tụ. “Một buổi chiều người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng hình giống ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt…” Người ta lấy tên thiên lí để đặt cho hoa để kỉ niệm cô gái đó tên là Lí, vì tình yêu mà có thể cách xa “trăm dặm nghìn dặm mà vẫn nhận ra chồng mình”…
Phạm Hổ rất tinh tế khi lựa chọn từ thiên nhiên phong phú những xhất liệu gợi hình gợi cảm, giàu ý nghiã xã hội. Cách đặc tả trái loòng boong: “ Chỉ lớn hơn quả hồng bì một tí. Da nó vàng mát. Cùi nó nhìn trong trong như ngọc và đặc biệ quả nào cũng mang một cái dấu như dấu móng tay của ai đó bấm vào” ( Sự tích quả loòng boong)
Tác giả đã diễn tả cái tình người này đặc biệt bằng thiên huyền thoại sống động, xuất pháttừ dấu hiệu độc đáo , cá biệt của một loại quả. Và qua đó ông cũng nhắc nhở các em thái độ trân trọng với thiên nhiên.
Chuyện vè hoa, về quả nhưng lại chính về chuyện con người. Qua mối câu chuyện, tg cố gắng gắn nối những chi tiết đẹp của cây với tình cảm và phẩm chất tốt đẹp của con người. Hoa phượng đỏ rực giống như nong xôi gấc mà ông thầy dạy võ đã giấu 5 học trò thân yêu của mình trong dó, đội lên đồi cao để giết chết tên giặc. Còn quả phượng giống thanh gươm xanh của các tráng sĩ ( sự tích hoa phượng), củ nhân sâm có dáng vẻ hình người và đó cũng chính là điều nhắc nhở với người đời sau về tình thầy trò ( sự tích cây nhân sâm)
Nhìn chung với lối kết thúc có hậu phù hợp với phong cách cổ tích và tâm lí trẻ thơ, chuyện hoa chuyện quả đã gây ấn tượng sâu sắc và sức hấp dẫn với đối với các em khơi mở trong các em những suy ngẫm về tình yêu thương, lòng nhân đạo và khả năng hướng thiẹn của con người.
VÕ QUẢNG
I. vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Võ Quảng sinh 1/3/1920 trong một gia đình nhà nho trung lưu ở xã đại hòa ,huyện đại lộc ,quảng nam ,đà nẵng
-15 tuổi học ở trường quốc học huế ,17 tuổi tham gia phong trào học sinh yêu nước ,gia nhập đoàn thanh niên dân chủ.19 tuổi gia nhập đoàn thanh niên phản đế . 21 tuổi bị pháp bắt giam ở nhà nho thừa phủ . . .
- Sau cách mạng tháng tám năm 1945 nổ ra ông được chính quyền việt minh cử làm ủy viên tư pháp thành phố đà nẵng ,khi quân pháp tái chiếm nam bộ ông được cử vào chức vụ phó chủ tịch ủy ban hành chính kháng chiến thành phố đà nẵng. Từ 1947 đến 1954 làm hội thẩm chính trị ,tòa án quân sự miền nam việt nam. Thời gian này ông cũng có sáng tác 1 số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi
- Sau khi tập kết ra bắc ông được điều về công tác ở chức vụ ủy viên ban nhi đồng trung ương ,phụ trách văn học cho thiếu nhi .Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức vụ giám đốc nhà xuất bản kim đồng một thời gan sau đó ông được cử làm giám đốc xưởng phim hoạt hình việt nam 1965 ông được kết nạp làm hội nhà văn vn .1968 ông về công tác tại hội văn hóa ,1971 về hội nhà văn vn và được phân công làm chủ tịch hội văn học thiếu nhi hội nhà văn vn
- Năm 2007 ông được trao tặng giải thưởng nhà nước về văn học thiếu nhi
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
- Võ quảng viết nhiều thể loại như thơ ,viết văn xuôi, kịch bản phim hoạt hình, viết cả tiểu luận , phê bình, kinh nghiệm và sáng tác văn học thiếu nhi .
- Nhà văn võ quảng là người viết nhiều truyện và thơ cho thiếu nhi với những tác phẩm như :
+truyện cái thăng (năm 1961)
+bài thơ thấy cái hoa nở(năm 1962)
+chỗ cây đa làng (năm 1964)
+nắng sớm (năm 1965)
+những chiếc áo ấm (1970)
+quê nội (năm 1974)
+tảng sáng (năm 1976)
II. NHỮNG THÀNH TỰU SÁNG TÁC CỦA VÕ QUẢNG
1. Thơ viết cho trẻ em
- là tác giả của một bộ truyện nổi tiếng võ quảng còn là nhà thơ với nhiều bài thơ hay cho lứa tuổi nhỏ
- Thơ võ quảng là thế giới của trẻ con và thế giới của hoa cỏ ,loài vật qua cách nhin của trẻ con
- Thơ của ông chủ yếu viết cho lứa tuổi mẫu giáo và đầu tiểu học .thơ võ quảng ít nói điều gì cao xa, to tát, trừu tượng mà ông chỉ nói những chuyện nhỏ nhẹ, bình thường, với giọng khiêm nhường nhiều khi vui hóm hỉnh nhưng thơ ông lại rất giàu ý vị giáo dục sâu sắc
a. thế giới thiên nhiên sinh động ,mới lạ và hấp dẫn
*những cảnh vật thiên nhiên
-võ quảng có những bức tranh thiên nhiên lộng lẫy dường như đủ cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều được ông thâu tóm những nét điển hình nhất của đất trời khi mùa xuân chợt đến qua một vườn xuân rực rỡ màu sắc với vẻ đẹp của
“hoa cải li ti
“Đốm vàng óng ánh
Hoa cà tim tím
Nõn nuột hoa bầu
Hoa ớt trắng phau
Xanh lơ hoa đỗ
Cà chua vừa độ
Đỏ mộng trĩu cành
Xanh ngắt hàng hành
Xanh lơ cải diếp’’
(ai cho em biết)
- Thiên nhiên như bừng tỉnh ,phô diễn ‘cái màu sắc quý ’cũng làm cho mùa xuân thêm tươi thắm - Những chi tiết được ông chọn lọc để miêu tả thiên nhiên thường có sức gợi, sức khái quát, ví dụ một thoáng thay đổi của đất trời khi mùa xuân chợt đến được ông miêu tả qua sự thức tỉnh kì diệu của chiếc chồi biếc
“Mầm non mắt lim dim
Cố nhìn qua kẽ lá
Thấy mây bay hối hả
Thấy lất phất mưa phùn ’
(mầm non)
cả đất trời xôn xao trong không khí tràn đầy sức
sống
‘vội bật chiếc vỏ rơi
Nó đứng dậy giữa trời
Khoác áo màu xanh biếc’
…
Mùa hạ được gợi tả qua nét vẽ về cảnh hố sen
‘hố sen sáng rực
Nh ư ngọn lửa hồng
Một chú bố nông
Mải mê đứng ngắm
Nước xanh thăm thẳm
Lồng lộng mây trời
Một cánh sen rơi
Rung rính mặt nước ‘’
(cổ một chỗ chơi)
Trong con mắt của nhà thơ ,mỗi mùa có một đặc trưng riêng ,vẻ đẹp riêng ,tác giả dí dỏm gợi bốn người chăm chỉ đầy trách nhiệm gửi tìm cho đất nước luôn mới mẻ
‘thay ca đổi kíp
Đổi mới non sông
Xuân ,hạ ,thu ,đông
Mỗi người một vẻ’
(bốn người)
b, Thế giới loài vật và cây cỏ
Vườn thơ võ quảng khá giàu về các loại chim thú và cây cỏ .trong thơ ông một xã hội chim ,thú rất đông vui và sinh động ;gần gũi với người là gà ,vịt ,trâu ,bò,lợn … xa hơn chim chào mào, cò, vạc, quạ, chim vàng anh những con vật ở rừng như thỏ ,nai ,cáo ,voi …dưới nước như bồ nông , ếch nhái …tất cả hợp lại một xã hội chim ,thú rất đông vui đầy tiếng kêu ,hát
2. VĂN XUÔI CỦA VÕ QUẢNG
Võ Quảng được biết đến trên tư cách một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Gần nửa thế kỉ cầm bút, ông đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của nền văn học thiếu nhi nước nhà. Ngoài tiểu thuyết và thơ, Võ Quảng còn là tác giả của nhiều truyện đồng thoại rất được bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích.
Toàn bộ truyện đồng thoại của Võ Quảng được tập hợp trong ba tập: Cái Mai (1967), Bài học tốt (1982), Những chiếc áo ấm (1987), với nhiều tác phẩm tiêu biểu như Chuyến đi thứ hai, Trong một hồ nước, Mắt Giếc đỏ hoe, Những chiếc áo ấm, Đò ngang, Anh Cút lủi, Đêm biểu diễn... Những sáng tác này, từ nhiều năm nay đã trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ bạn đọc tuổi thơ.
Võ Quảng đến với truyện đồng thoại trong bối cảnh thể loại này đã có nhiều thành tựu qua sự sáng tạo của Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Nguyễn Đình Thi... Với tư cách một người viết chuyên nghiệp, ông thực sự muốn thử thách mình ở một thể loại mới và tạo được dấu ấn nghệ thuật riêng. Cái Mai, Bài học tốt và Những chiếc áo ấm đã thể hiện những nét bản sắc gì của ngòi bút Võ Quảng ở lĩnh vực truyện đồng thoại?
a. Truyện đồng thoại Võ Quảng mang đậm chất dân gian
Như đã biết, truyện đồng thoại vốn nảy sinh trong đời sống dân gian. Từ thực tiễn đời sống của mình, quần chúng nhân dân qua bao đời đã sáng tạo nên rất nhiều những đồng thoại hay và đẹp. Khi sứ mệnh sáng tạo văn học cho thiếu nhi được trao cho các nhà văn, nhiều người đã tiếp tục sáng tác đồng thoại và không quên “lấy đồng thoại dân gian làm chất liệu sáng tác của mình”
Ở Việt Nam, hướng đi này được thể hiện rõ nhất qua chính trường hợp Võ Quảng
Thống kê từ toàn bộ sáng tác của ông, thấy có đến gần 50% số tác phẩm có quan hệ gần gũi với nguồn truyện kể dân gian với những biểu hiện đa dạng, phong phú và theo những mức độ ảnh hưởng khác nhau.
Trước hết, chất dân gian trong truyện đồng thoại của Võ Quảng thể hiện ở nội dung giải thích đặc điểm tự nhiên của loài vật. Trong truyện kể truyền thống, những sáng tác có nội dung này được xếp thành một bộ phận của thể loại truyện cổ tích, gọi là truyện cổ tích loài vật. Văn học dân gian, về bản chất là những sáng tác chung cho cả cộng đồng. Tuy vậy, vẫn cần thấy rằng, truyện cổ tích loài vật được sáng tạo ra là nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, nhu cầu khám phá thế giới loài vật của các em. Vì sao lông Quạ màu đen? Vì sao Trâu không có hàm răng trên?... Những câu hỏi kiểu như thế vẫn luôn được các em đặt ra cùng với niềm háo hức mong chờ được cắt nghĩa.
Võ Quảng đến với truyện đồng thoại trong bối cảnh thể loại này đã có nhiều thành tựu qua sự sáng tạo của Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Nguyễn Đình Thi... Với tư cách một người viết chuyên nghiệp, ông thực sự muốn thử thách mình ở một thể loại mới và tạo được dấu ấn nghệ thuật riêng. Cái Mai, Bài học tốt và Những chiếc áo ấm đã thể hiện những nét bản sắc gì của ngòi bút Võ Quảng ở lĩnh vực truyện đồng thoại?
Khi giải thích đặc điểm tự nhiên của loài vật, Võ Quảng vẫn tiếp tục con đường nghệ thuật dân gian. Ông cũng đưa ra những lời giải thích ngộ nghĩnh, phù hợp với vốn kinh nghiệm và “cái lí” của trẻ em. Chẳng hạn, Mắt Giếc đỏ hoe vì khóc nhiều, Mèo sợ nước nên chỉ tắm khô, tiếng hú của Vượn là dư âm tiếng kêu đau thương về sự mất mát của đồng loại... Cách giải thích như thế, nhìn chung tạo được niềm tin ngây thơ nơi những tâm hồn con trẻ.
So với truyện dân gian, truyện đồng thoại của Võ Quảng thường có nội dung phong phú hơn. Nhà văn không đơn thuần dừng lại ở việc giải thích mà thường kết hợp với những nội dung khác, đặc biệt là nội dung giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà văn phải có những lựa chọn trong việc xây dựng tình huống, sự việc có khả năng thể hiện đa chủ đề. Có thể quan sát điều này qua truyện Bài học tốt. Đây là tác phẩm có sự gần gũi với truyện dân gian Sự tích vết rạn trên mai Rùa.
Theo truyện dân gian, Rùa đến nhà Khỉ ăn giỗ. Vì nhà Khỉ ở trên cao nên Rùa phải “ngậm chặt đuôi Khỉ” để Khỉ đưa lên trên nhà. Thấy họ hàng nhà Khỉ chạy ra chào, Rùa quên phắt mình đang ở trên cao, mở miệng ra chào và thế là bị rơi xuống đất khiến cho cái mai bị vỡ ra thành nhiều mảng... (Nguồn truyện: Truyện cổ tích về các loài vật, Nxb. Giáo dục, 2002).
Võ Quảng cũng sử dụng tình huống tai nạn, song theo một cách khác, nhiều hàm ý hơn. Trước hết, cần thấy nhân vật chú Rùa trong truyện Bài học tốt của Võ Quảng có đường nét và cá tính hơn. Đó là một chú Rùa ham thích đi đây, đi đó song phải tính hay ngại. Vì thế, chú cứ lần lữa, tìm đủ lí do để trì hoãn việc lên đường: nào là, mùa đông thì rét mướt, mùa xuân vẫn còn là “đứa em của mùa đông”, mùa hè lại bụi bặm... Lên đường rồi thì chú mất dần niềm hăng hái. “Ngày đầu Rùa chạy, như có ai đẩy sau lưng.
Ngày thứ hai, Rùa chạy chậm. Ngày thứ ba, Rùa đi. Ngày thứ tư, Rùa đi chậm. Ngày thứ năm, Rùa lê từng bước...”. Ở hình tượng này, chúng ta dễ dàng bắt gặp những đường nét cá tính trẻ con. Câu chuyện về một chú Rùa đi bám rốt cục, đã gợi lên biết bao điều về thế giới tuổi thơ. Các em đọc truyện hẳn cũng thấy bóng dáng của chính cuộc sống của mình ở trong đó, mà thêm mến, thêm yêu hình tượng và câu chuyện của nhà văn.
Từ Bài học tốt, nhìn rộng ra, thấy nhiều truyện của Võ Quảng đã được “hoài thai” trên cơ sở cốt truyện dân gian. Khuynh hướng khai thác cốt truyện dân gian trong văn học viết cho thiếu nhi có thể nói là khá phổ biến. Mỗi nhà văn có những cách khai thác riêng. Võ Quảng không “tiểu thuyết hóa” như Tô Hoài hay chỉ lẩy ra một chi tiết, một hình tượng rồi viết nên một câu chuyện mới như Phạm Hổ. Ông quan tâm chủ yếu đến các cốt truyện cổ tích loài vật. Từ đó, nhà văn nhào nặn, phả vào tác phẩm của mình hơi thở cuộc sống hiện đại.
Như truyện Anh Cút lủi chẳng hạn, lí do mà con chim Cút có “thân hình trụi lủi”, phải cảnh chui bờ lủi bụi, theo nhà văn là do biếng lười lao động. Chương trình xây dựng nhà cửa đã có nhưng anh Cút lủi cứ lần khân nên mãi cứ nằm trong dự định.
Cốt truyện dân gian qua tay các nhà văn đã được xử lí theo hướng gia tăng các yếu tố hiện thực, vừa vẫn giữ được vẻ đẹp kì ảo của cái sắc màu “ngày xửa, ngày xưa”, vừa gợi lên được một cái gì đó rất gần gụi, thân quen. Thế giới loài vật trong trường hợp này đã được đặt trong góc nhìn hiện đại.
Chất dân gian trong truyện đồng thoại của Võ Quảng còn được thể hiện qua việc tác giả sử dụng kiểu bố cục tác phẩm theo hai phần trước sau rõ ràng. Mỗi phần có một chức năng riêng, cụ thể: phần diễn truyện mô tả sự việc, phần kết truyện nêu lên hệ quả sự việc.
Lối bố cục này là hoàn toàn phù hợp với tầm đón nhận của các em, nhất là các em tuổi nhi đồng. Điểm mới trong các kết truyện của Võ Quảng là việc đưa thêm lời người kể chuyện. Chẳng hạn, “Cho đến ngày nay, khi các bạn đi qua một cánh rừng vẫn còn nghe tiếng hú của Vượn...” (Vượn hú) hay “Riêng về cái mai, mời các bạn hãy xem thật kĩ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật” (Bài học tốt)... Loại lời văn này không có trong truyện kể truyền thống do chủ
trương trần thuật theo ngôi thứ ba với sắc thái giọng kể khách quan, trung hòa. Lời kết ở truyện Võ Quảng hé lộ một nét mới về giọng điệu đồng thoại hiện đại. Đó là giọng điệu trò chuyện thân mật, có tính chất mời mọc người nghe tham gia vào câu chuyện. Nói đồng thoại hiện đại là câu chuyện dành cho trẻ em như vậy là có cơ sở!
b. Mở rộng chức năng phản ánh hiện thực
Đồng thoại thuộc hệ thống những truyện tưởng tượng, không phản ánh cuộc sống theo quy luật tả thực. Tuy nhiên, trong cố gắng đổi mới thể loại, nhiều nhà văn Việt Nam giai đoạn chống Mỹ đã mở rộng chức năng phản ánh hiện thực cho truyện đồng thoại. Lịch sử văn học dân tộc đã thừa nhận sự thành công của không ít tác phẩm về phương diện này. Có thể kể tới Cô Bê 20 (Văn Biển), Chim Chích lạc rừng (Tô Hoài), Chuyện chú Trống Choai (Hải Hồ)... ở những tác phẩm này, bút pháp đồng thoại có sự kết hợp với bút pháp hiện thực trên cơ sở không phá vỡ những nguyên tắc thể loại.
Bản thân Võ Quảng cũng cho rằng, truyện đồng thoại có khả năng phản ánh cuộc sống mới, con người mới. Ông viết trong Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi như sau: “Truyện đồng thoại có đầy đủ khả năng phản ánh con người mới, cuộc sống mới, ở khắp nơi, trong một gia đình, dưới một mái trường, ở đồng ruộng, hầm mỏ, công trường, bất cứ nơi nào trên mặt đất hoặc còn bay bổng lên trăng sao, rộng ra khắp vũ trụ, hoặc giữa một thế giới vô cùng tinh vi khó thấy, thế giới nội tâm của con người”
Tác phẩm đầu tiên của ông được viết theo hướng này của truyện Cái Mai. Đó là một tác phẩm đồng thoại “dài hơi”, sử dụng ngôi kể thứ nhất, tái hiện cuộc đời, số phận cái Mai (một dụng cụ lao động). Qua hành trình số phận của nhân vật, nhà văn lần lượt tái hiện cuộc sống đau thương của con người dưới chế độ cũ, niềm hạnh phúc trong cuộc sống hồ hởi, khẩn trương xây dựng miền Bắc XHCN. Truyện mang đậm hơi thở cuộc sống thời đại, cho thấy một cảm hứng tràn đầy trong mỗi trang viết của nhà văn. Cảm hứng này ta còn bắt gặp trong nhiều sáng tác khác, nhất là ở Chuyến đi thứ hai.
Lấy cảm hứng từ truyện dân gian Cóc kiện Trời, Võ Quảng kể về anh Cóc Tía quyết định nối gót Cụ Tổ lên kiện Trời để đòi mưa cho hạ giới. Đường xa vạn dặm, dốc núi cheo leo, sông sâu thăm thằm nhưng Cóc Tía không hề nản chí. Thế rồi, nhờ gặp được Cò Bạch mà Cóc Tía thấy không cần phải lên kiện Trời nữa. Dưới đôi cánh của Cò Bạch, Cóc Tía đã nhìn thấy những con mương ngang dọc, những hồ chứa nước, những trạm thuỷ nông phun nước ào ào. Tất cả những hình ảnh ấy, theo Cò Bạch chính là thành quả của người lao động: “nhân dân vùng này, trong mấy năm qua đã đắp những đập cao ngăn nước, cho nước chảy vào các ao hồ. Nước các ao hồ dâng lên. Họ lại đào những con mương lớn nhỏ, cho nước chảy đến tưới khắp cánh đồng. Ông Trời không mưa nhưng họ vẫn có thừa nước để tưới ruộng”.
Không dừng lại ở việc phản ánh cuộc sống lao động, truyện đồng thoại của Võ Quảng còn mở rộng sang cả đề tài chiến tranh. Đó là trường hợp truyện Hòn Đá, một tác phẩm gợi lên kí ức đau thương về chiến tranh. Sự tàn khốc của chiến tranh, ranh giới mong manh giữa cái sống và cái chết đã được Đá Cuội tái hiện qua những dòng kể ngắn ngủi cho các bạn Đồng Hồ và Lịch Treo. Từ rừng sâu, Đá Cuội đã trở về trong ngôi nhà nhỏ, trở thành người kể chuyện cổ tích chiến tranh để “gợi lại hình ảnh của anh, nhắc nhở chung quanh cần sống như người đã mất”... Truyện đồng thoại của Võ Quảng như vậy đã hướng vào những hiện thực lớn của đời sống đất nước.
Chúng ta ghi nhận những cố gắng nói trên nhằm mục đích đổi mới thể loại của Võ Quảng và các nhà văn đương thời. Với sự đổi mới này, truyện đồng thoại Việt Nam đã có một giai đoạn sáng tác thật đẹp đẽ, tham gia tích cực vào việc cổ vũ sự nghiệp lớn lao của dân tộc. Chúng tôi xem, đó là thành quả rất đáng trân trọng của một thời đã qua và cần nghiên cứu để phát huy.
c. Mang dáng dấp truyện ngụ ngôn
Viết cho các em, nhà văn Võ Quảng rất chú trọng đến nội dung giáo dục. Theo ông, người viết cho trẻ em phải đồng thời là một nhà sư phạm. Trung thành với quan điểm nghệ thuật này, Võ Quảng đã mang vào đồng thoại những bài học giáo dục nhằm góp phần bồi dưỡng đời sống tâm hồn cho các em. Ở đây, ông cũng như những nhà văn viết cho thiếu nhi khác phải đối diện với
một thử thách nghệ thuật: làm sao để đạt được sự hoà giải giữa cảm quan người lớn với tâm hồn trẻ thơ. Trẻ em vốn giàu sức mạnh bản năng tự nhiên, thích tự do rộng rãi, trong lúc người lớn lại muốn đưa các em vào khuôn phép chuẩn mực. Điều này, ở ta, khi văn hoá cộng đồng còn tỏ rõ sức mạnh, khi văn hoá cá nhân chưa tìm được tiếng nói khẳng định thì điều này càng bộc lộ rõ. Để giải quyết điều này, Võ Quảng tránh con đường dùng quyền uy người lớn để áp đặt, cao giọng với các em. Ông lấy cái các em thích làm cơ sở cho những sáng tạo. Không phải tất cả nhưng đa phần tác phẩm của ông được các em đón nhận như một thứ trò chơi đầy cảm hứng. Các em có thể đóng vai, hoá thân vào các nhân vật và những cuộc chơi đầy ắp tiếng cười nở ra, lan toả...
-Đã có lần nhà văn Vũ Ngọc Bình nói đại ý rằng, một số đồng thoại của Võ Quảng mang “dáng dấp của những ngụ ngôn”(3). Chúng tôi đồng tình với nhận xét này và xem đó như một đặc điểm của truyện đồng thoại Võ Quảng. Đúng là, trong một số tác phẩm đồng thoại, Võ Quảng bộc lộ rõ xu hướng triết lí. Thi thoảng, ông để cho nhân vật cao giọng, chẳng hạn như lời Vịt Bầu nói với Cóc Tía: “Đối với tôi, sống có nghĩa là bơi” (Chuyến đi thứ hai).
Nhưng căn bản, ông để cho nội dung triết lí toát lên từ bản thân hình tượng. Theo tôi, thể hiện rõ nhất điều này là truyện Đò Ngang. Nhân vật của câu chuyện là một anh Đò Ngang suốt ngày đêm đưa khách qua sông. Đò Ngang làm rất tốt công việc của mình nhưng tự đáy lòng, Đò Ngang khao khát được như Thuyền Mành đi đây, đi đó. Khao khát của Đò Ngang thật đáng trân trọng vì nó phản ảnh nhu cầu mở mang hiểu biết để được lớn lên. Thuyền Mành đã chỉ cho Đò Ngang hiểu được thế nào là “lớn”, cái lớn không cần tìm ở đâu xa mà ngay trong ý nghĩa công việc hiện tại của mình. “Mỗi khi Đò Ngang cập bến, mọi người đều ùa ra reo mừng. Hỏi ở đây có người nào được đón tiếp như vậy? Đò Ngang cũng được lớn lên. Cái lớn đó không đo được bằng cân hay bằng thước...”. Triết lí tạo chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm, nới rộng đối tượng bạn đọc. Song lắm khi, triết lí lại hạn chế ngay chính bạn đọc nhỏ tuổi của nhà văn. Đây thực là một cái khó của nghề viết văn cho trẻ!
d. Truyện đồng thoại Võ Quảng ngắn gọn, ngôn từ giàu hình ảnh...
-Truyện đồng thoại của Võ Quảng thường ngắn gọn. Đặc điểm này đã chi phối tới việc tổ chức tác phẩm của nhà văn. Trong mỗi tác phẩm, Võ Quảng thường chỉ xây dựng một tình huống, trần thuật và miêu tả bằng những câu văn hết sức chắt lọc. Tả cảnh núi đồi mùa thu, ông chỉ viết hai câu: “Nhìn ra, mây đùn tan biến. Đồi núi trải ra như đàn rùa lóp ngóp và xa rất xa, trên một quả núi cao, một lâu đài hiện ra như một hòn ngọc” (Bài học tốt). Tả cảnh thiên nhiên tiết giêng hai, ông cũn
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Minh Ly
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)