Văn học: STGT về ĐTH Nguyễn Du

Chia sẻ bởi Trần Việt Thao | Ngày 11/05/2019 | 82

Chia sẻ tài liệu: Văn học: STGT về ĐTH Nguyễn Du thuộc Giáo dục đặc biệt

Nội dung tài liệu:

GT về ĐTH Nguyễn Du.

Tiểu Sử Tác Giả



 Nguyễn Du: (1765-1820) Cụ tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Tổ tiên nhà cụ đời đời làm quan với nhà Hậu Lê. Cụ có khí tiết: sau khi Tây Sơn dứt nhà Lê, cụ không chịu ra làm quan, chỉ lấy chơi bời săn bắn làm vui, trong chín mươi chín ngọn núi Hồng Sơn (ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh) không chỗ nào cụ không đi tới. Năm Gia Long nguyên niên (1802), cụ được triệu ra làm tri huyện huyện Phù Dực (nay thuộc Tỉnh Thái Bình), rồi được ít lâu thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm thứ tám (1809), cụ ra làm cai bạ tỉnh Quảng Bình. Năm thứ mười hai (1813), thăng Cần chánh điện học sĩ, sung làm chánh sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về, thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh mệnh nguyên niên (1820), lại có mệnh sang sứ Tàu, nhưng chưa kịp đi thì cụ mất, thọ 56 tuổi. Cụ học rộng, không những tinh thâm nho học, lại thông đạt cả đạo Phật, đạo Lão. Cụ làm nhiều thơ văn và sách vở bằng chữ nho, như Thanh hiên tiền hậu tập, Bắc hành thi tập, Nam trung tạp ngâm, Lê quý kỷ sự. Cụ lại có biệt tài về văn nôm. Khi đi sứ Tàu về, cụ có soạn quyển truyện Thúy Kiều mà nguyên lúc đầu tác giả đặt nhan là Đoạn trường tân thanh (đoạn trường: đứt ruột; tân thanh: tiếng mới).


Ốm



 Nhiều bệnh, nhiều buồn dạ vẩn vơ, Mười tuần bến Quế ốm nằm co. Thần đau vào ngõ chực bắt vía, Chuột đói leo giường gặm sách ta. Chưa cóvăn chương gây nghiệt chướng, Chẳng cho cát bụi vẳng hư không. Tam Lan bên sổ câu ngâm dứt, Man mác tinh thần thoái mái ra. Xuân lạnh, hè oi quấy mãi thân, Năm Hồng nằm nghỉ tháng lần năm. Gương trong sớm lạnh soi già yếu, Cửa trúc đêm im nhức bắp chân. Bệnh tật mười năm không kẻ hỏi, Thuốc tiên chín luyện biết đâu tìm. Cửa ngoài sao được vầng trăng tỏ, Ánh sáng soi liền mọi tối tăm.


Tự Thán



 Sống chửa nên danh sức đã suy, Bạc đầu phơ phất gió chiều đi. Nết như chân hạc sao đành cắt, Mệnh tựa lông hồng chẳng biết chi. Trời đất phú cho hình tướng kém, Xuân thu trả lại trắng tu mi. Gió tây lộng cách bồng bay gấp, Rồi nữa lênh đênh đâu chốn về? Tấm thân sáu thước tuổi ba mươi, Lầm lỡ thông minh hại tính trời. Vốn chẳng văn chương căm oán mệnh, Có chi trời đất ghét ghen người. Sách gươm dang dở làm ăn khó, Lần lữa xuân thu tóc bạc rồi. Sao được cạo đầu về với núi, Nằm nghe thông gió vọng mây trôi.


Đêm Thu



 Sương sa như bạc sao đầy trời, Giun dế tường đông quá ngậm ngùi. Muôn dặm hơi thu xua lá rụng, Một trời sắc lạnh quét mây trôi. Già về tóc bạc nên thương đấy, Trọ mãi non xanh chửa ngán người. Ngán nỗi lênh đênh du khách mỏi, Nằm đau bến tuế tháng năm vơi. Dịch Thơ: Màn sao đầy sáng móc sương ngần, Dọng dế tường đông thảm bội phần. Muôn dặm hơi thu xua lá rụng, Một trời hơi lạnh quét mây vần. Già về tóc bạc thương ngươi đấy, Trọ mãi non xanh núi vẫn thân. Mệt mỏi khách du đà lận đận, Ốm bên bến Tuế buổi cùng năm.






Làng Núi



 Vào sâu muôn núi dứt phong trần, Đây đó muôn chiều cảnh trúc ngăn. Mũ áo người già khuyên kiểu Hán, Trong non năm tháng khác xa Tần. Trẻ chăn sừng gõ đồng loang tối, Gái trẻ gàu buông giếng nước xuân. Sao được thoát ngoài trần tục nhỉ, Thông dài dưới gốc thảnh thơi thân.


Thăng Long



 Lô Tản xưa rày vẫn núi sông, Bạc đầu còn được thấy Thăng Long. Nghìn năm dinh lớn sau đường cái, Một mảng thành nay xóa cố cung. Người đẹp từng quen giờ aÜm cháu, Bạn chơi thời nhỏ thảy nên ông. Một đêm vương vấn khổ không ngủ, Tiếng sáo vi vu ánh nguyệt hồng.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trần Việt Thao
Dung lượng: | Lượt tài: 4
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)