Văn học hiện đại 2
Chia sẻ bởi Dương Thị Phương Quỳnh |
Ngày 21/10/2018 |
20
Chia sẻ tài liệu: văn học hiện đại 2 thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Nhà văn Võ Quảng
Võ Quảng (1920-2007) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu tập trung về đề tài thiếu nhi. Ông cũng là người đầu tiên dịch tác phẩm Don Quixote sang tiếng Việt dưới bút danh Hoàng Huy từ năm 1959. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thường Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
I.Cuộc đời và sự nghiệp văn chương
Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920, tại xã Đại Hòa huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Năm 1935, trong khi đang theo học Tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ ở Huế, năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở quê nhà.
Sau khi Cách mạng tháng Tám1945 nổ ra, ông được chính quyền Việt Minh cử làm ủy viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được cử vào chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tòa án quân sự miền Nam Việt Nam. Thời gian này, ông cũng có sáng tác một số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi.
Sau khi tập kết ra Bắc, ông được điều về công tác ở chức vụ Ủy viên Ban nhi đồng Trung ương, phụ trách văn học cho thiếu nhi. Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng, Một thời gian sau đó, ông được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1965, ông được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hóa, năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu.
Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Ông qua đời ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội. Mộ phần của ông đang đặt tại nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc.
Nhà văn Võ Quảng là người viết nhiều truyện và thơ cho thiếu nhi với nhiều tác phẩm được các thế hệ yêu thích như:
- Cái Thăng (truyện 1961)
- Thấy cái hoa nở (thơ 1962)
- Chỗ cây đa làng (1964)
- Nắng sớm (thơ, 1965)
- Cái Mai (1967)
- Những chiếc áo ấm
(truyện 1970)
Anh Đom đóm (thơ, 1970)
Kinh tuyến, vĩ tuyến
(truyện 1995)
- Quê nội (truyện 1974)
- Tảng sáng (truyện 1976)
- Bài học tốt (truyện, 1975)
- Gà mái hoa (thơ 1975)
- Quả đỏ (thơ 1980)
- Vượn hú (truyện 1993)
Ánh nắng sớm (thơ 1993)
- Măng tre (thơ, 1972)
Sơn Tinh Thủy Tinh, Con 2
(kịch bản phim hoạt hình).
Ngoài ra, ông còn có bài thơ đồng dao "Mời vào" cho trẻ em rất nổi tiếng.
Tác phẩm
II .Những thành tựu sáng tác của Võ Quảng.
1 .Thơ viết cho trẻ em .
Ông chủ yếu viết cho lứa tuổi mẫu giáo và đầu tiểu
học . Đó là những bài thơ xinh xắn ,nhẹ nhàng nhưng
mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc .
a .Thế giới thiên nhiên sinh động ,mới lạ ,hấp dẫn.
* Những cảnh vật thiên nhiên
Võ quảng có những bức tranh lỗng lẫy của cảnh vật
thiên nhiên .Dường như bốn mùa xuân , hạ ,thu, đông
đều được ông thâu tóm những nét điển hình nhất của
đất trời khi mùa xuân chợt đến qua sự thức tỉnh kì diệu
của chổi biếc :
Mầm non mắt lim dim
Cố nhìn qua kẽ lá
Thấy mây bay hối hả
Thấy lất phất mưa phùn.
(mầm non)
Cả đất trời xôn xao trong không khí tràn đầy sức sống :
Vội bật chiếc vỏ rơi
Nó đứng dậy giưã trời
Khoác áo màu xanh biếc…
Mùa hạ được gợi tả qua nét vẽ cảnh hồ sen :
Hoa sen sáng rực
Như ngọn lửa hồng
Một chú bồ nông
Mải mê đứng ngắm
Nước xanh thăm thẳm
Lồng lộng mây trời
Một cánh sen rơi
Rung rinh mặt nước
(có một chỗ chơi)
Bài thơ mang phong cách cổ điển : lấy động tả tĩnh.Tác
giả miêu tả âm thanh – tiếng động của cánh sen rơi nhưng
lại thấy toát lên sự tĩnh lặng .Một cánh sen rơi cũng đủ
làm mặt nước lung linh gợn sóng .Không gian yên tĩnh
thoáng đãng và trong lành như được ướp hương sen , và
chú bồ nông kia như cũng bị thôi miên bởi cảnh sắc này .
Trong con mắt của nhà thơ ,mỗi mùa có một dặc trưng
riêng , vẻ đẹp riêng .
* Thế giới loài vật và cây cỏ :
Vườn thơ của Võ Quảng khá giàu có về các loại
chim thú và cây cỏ .Trước hết trong thơ ông xuất hiện
một xã hội chim , thú rất đông vui và sinh động : gần
gũi với người là : gà ,vịt ,chó ,trâu …xa hơn là chim
chào mào , cò , vạc ,quạ …những con vật ở rừng như
thỏ ,nai ,cáo ,voi …dưới nước như bồ nông , ếch , nhái
Tất cả hợp thành một xã hội chim , thú đông vui , đầy
tiếng kêu , hát .. Tác giả đã thổi vào những loài vật ấy
một tâm linh để chúng hiện lên có sinh khí ,có hoạt động
như con người .
Những bài thơ Võ Quảng viết về cây cỏ thường rất tươi
tắn . Ông đem đến cho các em vườn xuân rực rỡ sắc màu
với vẻ đẹp của :
Hoa cải li ti
Đốm vàng óng ánh
Hoa cà tim tím
Nõn nuột hoa bầu
Hoa ớt trắng phau
Xanh lơ hoa đỗ
Cà chua vừa độ
Đỏ mọng trĩu cành
Xanh ngắt hàng hành
Xanh lơ cải diếp…
( Ai cho em biết )
b . Những bài học đầu tiên về cuộc sống .
Võ Quảng quan niệm “không nên dè sẻn , không nên tính
toán rằng mình chỉ véo mẩu này trong toàn bộ vốn liếng
của mình ra để viết truyện này , còn mẩu kia thì để dành
viết truyện khác . Mỗi khi viết một truyện dù nhỏ nhất , nhà
văn cũng phải dốc hết cả cuộc đời , dành trọn cả tấm lòng
và sự hiểu biết của mình vào đó”. Với quan niệm như vậy
Võ Quảng đã sáng tác những bài thơ không chỉ giúp các em
phát hiện ra cái đẹp xung quanh , cái đẹp của thiên nhiên mà
còn giúp các em hiểu được cái đẹp ấy chính là nhờ bàn tay
lao động , nhờ công sức của con người .
Mỗi bài thơ của ông đều có tác dụng giáo dục rõ rệt ,hướng
các em vào những việc làm tốt :chăm học ,chăm làm…
tác giả đã khéo léo lồng ý nghĩa giáo dục trong hình ảnh
đẹp ,trong cách nói nhẹ nhàng qua các bài : chị chổi tre ,
anh đom đóm , ai dậy sớm…
2. Văn xuôi Võ Quảng viết cho trẻ em .
Rất phong phú : truyện đồng thoại và tiểu thuyết
a . Truyện đồng thoại .
- Truyện đồng thoại của Võ Quảng được tập hợp trong hai
tập : Những chiếc áo ấm (1970) ,Bài học tốt (1975)
với những truyện tiêu biểu :chuyến đi thứ hai , bài học tốt
trong một hồ nước…
- Truyện đồng thoại của Võ Quảng nhẹ nhàng mà thấm thía
Nó mang đến cho trẻ những bài học bổ ích , giúp trẻ vững
vàng hơn trong quá trình hoàn thiện nhân cách .
- Truyện Võ Quảng ngắn và động , mang dáng dấp truyện
ngụ ngôn .
b. Tiểu thuyết.
Có 2 tác phẩm : Quê nội và tảng sáng .tác giả muốn nói
với các em tình yêu quê hương bao giờ cũng gắn với tình
yêu cách mạng ; càng yêu quê hương thì càng thêm yêu
cách mạng , và càng gắn bó với cách mạng thì càng yêu
quê hương . Cảm hứng chung trong các tác phẩm là
quê hương trong hoài niệm của tác giả . Một vùng quê đẹp
và trù phú bên dòng sông Thu Bồn ,với những bãi dâu bạt
ngàn …những con người chất phác ,cần cù làm đủ mọi nghề
để kiếm sống và họ kiên quyết bám trụ trên quê hương. Họ
đoàn kết cùng nhau đánh giặc .
Viết về quê hương mình , Võ Quảng thiết tha với nguồn
cảm hứng về cách mạng , về sự hồi sinh, “bừng lên một làng”
Đó là sự bừng tỉnh của làng Hòa Phước quê hương ông khi
cách mạng tới . Cách mạng tháng Tám là “cái bản lề”
giữa bóng tối và ánh sáng .
3. Vài nét nghệ thuật thơ văn Võ Quảng .
a . Nghệ thuật miêu tả .
Nghệ thuật miêu tả loài vật rất tinh tế , chỉ bằng vài chi
tiết chọn lọc ông đã khắc họa con vật một cách nổi bật
Miêu tả con trâu mộng :
Da đen bóng loáng
ức rộng thênh thênh
Đôi sừng vênh vênh
Chóp sừng nhọn hoắt
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất đặc sắc .Ông thường
phát hiện ra những vẻ đẹp thiên nhiên gần gũi mà diệu
kì
Đọc thơ của Võ Quảng ta có cảm giác như được dạo chơi
trong một công viên kì lạ ,ở đó có nhiều loài chim , loài cỏ
thơm …Thiên nhiên rộn ràng âm thanh , màu sắc .
Văn xuôi của ông có những trang miêu tả thật tài hoa và
sâu sắc. Trong quê nội và Tảng Sáng tác giả đã vẽ lên cảnh
quê thật lộng lẫy và xinh đẹp.
b . Ngôn ngữ và nhạc điệu .
Thơ văn Võ Quảng rất giàu nhạc điệu ,vì vậy trẻ em dễ thuộc
và dễ nhớ . Có bài mang âm hưởng của bài đồng dao :chị
chổi tre , mời vào…. . Có bài êm dịu , hài hòa :anh đom đóm,
Có bài tiết tấu luôn luôn thay đổi :Gà mái hoa ,bác mưa …
Hệ thống ngôn ngữ thường là từ thông dụng , giản di ,dễ
hiểu .Ông sử dụng các biện pháp tu từ làm cho vốn từ đó thật
sinh động và hấp dẫn .
Thơ Võ Quảng chắc khỏe với từ láy , những thanh trắc ,
những cử chỉ , hành động luôn biến đổi
Võ Quảng biết khéo léo kết hợp những mảng từ tượng
thanh bằng cách dùng hoàn toàn tiếng kêu của loài vật
như vịt thì cạc cạc cạc…lợn thì ịt ịt ịt…
Văn xuôi Võ Quảng giàu nhạc điệu . Đọc văn của ông
ta thấy chất thơ trong từng câu , từng chữ :Tảng Sáng ,Quê
Nội .
c . Những chi tiết hài hước , dí dỏm .
Thơ văn Võ Quảng thường xuất hiện những chi tiết hóm
hỉnh ,tinh nghịch , ngồ ngộ rất dễ nhớ .
Thơ : sự dí dỏm thể hiện trong cách quan sát , cách nhìn
nhận , cách miêu tả
- Văn xuôi :Cách miêu tả nhân vật dí dỏm ,hài hước.
Võ Quảng (1920-2007) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu tập trung về đề tài thiếu nhi. Ông cũng là người đầu tiên dịch tác phẩm Don Quixote sang tiếng Việt dưới bút danh Hoàng Huy từ năm 1959. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thường Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
I.Cuộc đời và sự nghiệp văn chương
Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920, tại xã Đại Hòa huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Năm 1935, trong khi đang theo học Tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ ở Huế, năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở quê nhà.
Sau khi Cách mạng tháng Tám1945 nổ ra, ông được chính quyền Việt Minh cử làm ủy viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được cử vào chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tòa án quân sự miền Nam Việt Nam. Thời gian này, ông cũng có sáng tác một số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi.
Sau khi tập kết ra Bắc, ông được điều về công tác ở chức vụ Ủy viên Ban nhi đồng Trung ương, phụ trách văn học cho thiếu nhi. Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng, Một thời gian sau đó, ông được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1965, ông được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hóa, năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu.
Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Ông qua đời ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội. Mộ phần của ông đang đặt tại nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc.
Nhà văn Võ Quảng là người viết nhiều truyện và thơ cho thiếu nhi với nhiều tác phẩm được các thế hệ yêu thích như:
- Cái Thăng (truyện 1961)
- Thấy cái hoa nở (thơ 1962)
- Chỗ cây đa làng (1964)
- Nắng sớm (thơ, 1965)
- Cái Mai (1967)
- Những chiếc áo ấm
(truyện 1970)
Anh Đom đóm (thơ, 1970)
Kinh tuyến, vĩ tuyến
(truyện 1995)
- Quê nội (truyện 1974)
- Tảng sáng (truyện 1976)
- Bài học tốt (truyện, 1975)
- Gà mái hoa (thơ 1975)
- Quả đỏ (thơ 1980)
- Vượn hú (truyện 1993)
Ánh nắng sớm (thơ 1993)
- Măng tre (thơ, 1972)
Sơn Tinh Thủy Tinh, Con 2
(kịch bản phim hoạt hình).
Ngoài ra, ông còn có bài thơ đồng dao "Mời vào" cho trẻ em rất nổi tiếng.
Tác phẩm
II .Những thành tựu sáng tác của Võ Quảng.
1 .Thơ viết cho trẻ em .
Ông chủ yếu viết cho lứa tuổi mẫu giáo và đầu tiểu
học . Đó là những bài thơ xinh xắn ,nhẹ nhàng nhưng
mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc .
a .Thế giới thiên nhiên sinh động ,mới lạ ,hấp dẫn.
* Những cảnh vật thiên nhiên
Võ quảng có những bức tranh lỗng lẫy của cảnh vật
thiên nhiên .Dường như bốn mùa xuân , hạ ,thu, đông
đều được ông thâu tóm những nét điển hình nhất của
đất trời khi mùa xuân chợt đến qua sự thức tỉnh kì diệu
của chổi biếc :
Mầm non mắt lim dim
Cố nhìn qua kẽ lá
Thấy mây bay hối hả
Thấy lất phất mưa phùn.
(mầm non)
Cả đất trời xôn xao trong không khí tràn đầy sức sống :
Vội bật chiếc vỏ rơi
Nó đứng dậy giưã trời
Khoác áo màu xanh biếc…
Mùa hạ được gợi tả qua nét vẽ cảnh hồ sen :
Hoa sen sáng rực
Như ngọn lửa hồng
Một chú bồ nông
Mải mê đứng ngắm
Nước xanh thăm thẳm
Lồng lộng mây trời
Một cánh sen rơi
Rung rinh mặt nước
(có một chỗ chơi)
Bài thơ mang phong cách cổ điển : lấy động tả tĩnh.Tác
giả miêu tả âm thanh – tiếng động của cánh sen rơi nhưng
lại thấy toát lên sự tĩnh lặng .Một cánh sen rơi cũng đủ
làm mặt nước lung linh gợn sóng .Không gian yên tĩnh
thoáng đãng và trong lành như được ướp hương sen , và
chú bồ nông kia như cũng bị thôi miên bởi cảnh sắc này .
Trong con mắt của nhà thơ ,mỗi mùa có một dặc trưng
riêng , vẻ đẹp riêng .
* Thế giới loài vật và cây cỏ :
Vườn thơ của Võ Quảng khá giàu có về các loại
chim thú và cây cỏ .Trước hết trong thơ ông xuất hiện
một xã hội chim , thú rất đông vui và sinh động : gần
gũi với người là : gà ,vịt ,chó ,trâu …xa hơn là chim
chào mào , cò , vạc ,quạ …những con vật ở rừng như
thỏ ,nai ,cáo ,voi …dưới nước như bồ nông , ếch , nhái
Tất cả hợp thành một xã hội chim , thú đông vui , đầy
tiếng kêu , hát .. Tác giả đã thổi vào những loài vật ấy
một tâm linh để chúng hiện lên có sinh khí ,có hoạt động
như con người .
Những bài thơ Võ Quảng viết về cây cỏ thường rất tươi
tắn . Ông đem đến cho các em vườn xuân rực rỡ sắc màu
với vẻ đẹp của :
Hoa cải li ti
Đốm vàng óng ánh
Hoa cà tim tím
Nõn nuột hoa bầu
Hoa ớt trắng phau
Xanh lơ hoa đỗ
Cà chua vừa độ
Đỏ mọng trĩu cành
Xanh ngắt hàng hành
Xanh lơ cải diếp…
( Ai cho em biết )
b . Những bài học đầu tiên về cuộc sống .
Võ Quảng quan niệm “không nên dè sẻn , không nên tính
toán rằng mình chỉ véo mẩu này trong toàn bộ vốn liếng
của mình ra để viết truyện này , còn mẩu kia thì để dành
viết truyện khác . Mỗi khi viết một truyện dù nhỏ nhất , nhà
văn cũng phải dốc hết cả cuộc đời , dành trọn cả tấm lòng
và sự hiểu biết của mình vào đó”. Với quan niệm như vậy
Võ Quảng đã sáng tác những bài thơ không chỉ giúp các em
phát hiện ra cái đẹp xung quanh , cái đẹp của thiên nhiên mà
còn giúp các em hiểu được cái đẹp ấy chính là nhờ bàn tay
lao động , nhờ công sức của con người .
Mỗi bài thơ của ông đều có tác dụng giáo dục rõ rệt ,hướng
các em vào những việc làm tốt :chăm học ,chăm làm…
tác giả đã khéo léo lồng ý nghĩa giáo dục trong hình ảnh
đẹp ,trong cách nói nhẹ nhàng qua các bài : chị chổi tre ,
anh đom đóm , ai dậy sớm…
2. Văn xuôi Võ Quảng viết cho trẻ em .
Rất phong phú : truyện đồng thoại và tiểu thuyết
a . Truyện đồng thoại .
- Truyện đồng thoại của Võ Quảng được tập hợp trong hai
tập : Những chiếc áo ấm (1970) ,Bài học tốt (1975)
với những truyện tiêu biểu :chuyến đi thứ hai , bài học tốt
trong một hồ nước…
- Truyện đồng thoại của Võ Quảng nhẹ nhàng mà thấm thía
Nó mang đến cho trẻ những bài học bổ ích , giúp trẻ vững
vàng hơn trong quá trình hoàn thiện nhân cách .
- Truyện Võ Quảng ngắn và động , mang dáng dấp truyện
ngụ ngôn .
b. Tiểu thuyết.
Có 2 tác phẩm : Quê nội và tảng sáng .tác giả muốn nói
với các em tình yêu quê hương bao giờ cũng gắn với tình
yêu cách mạng ; càng yêu quê hương thì càng thêm yêu
cách mạng , và càng gắn bó với cách mạng thì càng yêu
quê hương . Cảm hứng chung trong các tác phẩm là
quê hương trong hoài niệm của tác giả . Một vùng quê đẹp
và trù phú bên dòng sông Thu Bồn ,với những bãi dâu bạt
ngàn …những con người chất phác ,cần cù làm đủ mọi nghề
để kiếm sống và họ kiên quyết bám trụ trên quê hương. Họ
đoàn kết cùng nhau đánh giặc .
Viết về quê hương mình , Võ Quảng thiết tha với nguồn
cảm hứng về cách mạng , về sự hồi sinh, “bừng lên một làng”
Đó là sự bừng tỉnh của làng Hòa Phước quê hương ông khi
cách mạng tới . Cách mạng tháng Tám là “cái bản lề”
giữa bóng tối và ánh sáng .
3. Vài nét nghệ thuật thơ văn Võ Quảng .
a . Nghệ thuật miêu tả .
Nghệ thuật miêu tả loài vật rất tinh tế , chỉ bằng vài chi
tiết chọn lọc ông đã khắc họa con vật một cách nổi bật
Miêu tả con trâu mộng :
Da đen bóng loáng
ức rộng thênh thênh
Đôi sừng vênh vênh
Chóp sừng nhọn hoắt
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất đặc sắc .Ông thường
phát hiện ra những vẻ đẹp thiên nhiên gần gũi mà diệu
kì
Đọc thơ của Võ Quảng ta có cảm giác như được dạo chơi
trong một công viên kì lạ ,ở đó có nhiều loài chim , loài cỏ
thơm …Thiên nhiên rộn ràng âm thanh , màu sắc .
Văn xuôi của ông có những trang miêu tả thật tài hoa và
sâu sắc. Trong quê nội và Tảng Sáng tác giả đã vẽ lên cảnh
quê thật lộng lẫy và xinh đẹp.
b . Ngôn ngữ và nhạc điệu .
Thơ văn Võ Quảng rất giàu nhạc điệu ,vì vậy trẻ em dễ thuộc
và dễ nhớ . Có bài mang âm hưởng của bài đồng dao :chị
chổi tre , mời vào…. . Có bài êm dịu , hài hòa :anh đom đóm,
Có bài tiết tấu luôn luôn thay đổi :Gà mái hoa ,bác mưa …
Hệ thống ngôn ngữ thường là từ thông dụng , giản di ,dễ
hiểu .Ông sử dụng các biện pháp tu từ làm cho vốn từ đó thật
sinh động và hấp dẫn .
Thơ Võ Quảng chắc khỏe với từ láy , những thanh trắc ,
những cử chỉ , hành động luôn biến đổi
Võ Quảng biết khéo léo kết hợp những mảng từ tượng
thanh bằng cách dùng hoàn toàn tiếng kêu của loài vật
như vịt thì cạc cạc cạc…lợn thì ịt ịt ịt…
Văn xuôi Võ Quảng giàu nhạc điệu . Đọc văn của ông
ta thấy chất thơ trong từng câu , từng chữ :Tảng Sáng ,Quê
Nội .
c . Những chi tiết hài hước , dí dỏm .
Thơ văn Võ Quảng thường xuất hiện những chi tiết hóm
hỉnh ,tinh nghịch , ngồ ngộ rất dễ nhớ .
Thơ : sự dí dỏm thể hiện trong cách quan sát , cách nhìn
nhận , cách miêu tả
- Văn xuôi :Cách miêu tả nhân vật dí dỏm ,hài hước.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Dương Thị Phương Quỳnh
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)