Van hoa champa
Chia sẻ bởi Vũ Thị Hòa |
Ngày 27/04/2019 |
67
Chia sẻ tài liệu: van hoa champa thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
TÌM HIỂU TRANG PHỤC VÀ NGHỀ DỆT THỔ CẨM CỦA DÂN TỘC CHĂM
DANH SÁCH NHÓM 3
1. PHẠM VĂN CƯỜNG
2. NGUYỄN VĂN KHÁNH
3. TRẦN TẤN VIỆT
4. TRẦN VĂN KIÊN
5. NGÔ THỊ THỦY
6. NGHIÊM THỊ TÂN
7. LÊ THỊ NGỌC HIỆP
8. VŨ THỊ LÊ
I. CÁC LOẠI TRANG PHỤC CHĂM
1. Trang phục của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Chăm.
2. Trang phục Chăm trong sinh hoạt thường ngày và lễ hội.
3. Các bộ phận khác của trang phục
4. Đặc trưng của trang phục Chăm
5. Ý nghĩa
1.1. Trang phục vua chúa Chăm.
Y phục vua Chúa Chăm gồm có áo bào bằng lụa, có hoa bằng vàng, trên nền đen hay xanh lá cây.Áo lót bằng vải trắng, nhỏ sợi mịn màng, đôi khi có thêu dệt hay viền tua bằng vàng.
Ở ngang lưng đeo bên ngoài lễ phục một cái đai vàng nạm ngọc và trang trí những vòng hoa.
Vua đi dép da đỏ, còn giầy và ủng thì thêu và nạm ngọc, cổ, ngón tay, ngực vua thì mang rất nhiều đồ trang sức bằng vàng, những chuỗi ngọc xanh…Vua được che bằng một cái lọng trắng.
1.2.1. Trang phục tu sĩ Bàlamôn Chăm
Nói chung trang phục của cả sư là tiêu biểu cho tu sĩ đạo Bàlamôn. Cả sư mặc áo trắng, mặc váy, buộc dây lưng và khăn đội đầu.
Các trang phục của tu sĩ cấp dưới cơ bản đều giống trang phục của cả sư nhưng chỉ khác và phân biệt được với nhau ở chỗ là áo của cả sư, ống tay được may hai lớp vải, còn tu sĩ bình thường chỉ được may một lớp vải.
Cả sư thì mặc váy có cạp váy hình rồng, thắt dây lưng có hoa văn hai mặt nhiều hoa văn. Còn tu sĩ cấp bình thường, mặc váy trơn, không có cạp váy và thắt dây lưng có hoa văn thường như hoa văn quả trám, hoa văn con thằn lằn...
1.2.2. Trang phục tu sĩ chăm Hồi giáo - Bà Ni
Cả sư mặc áo dài phình rộng, được ghép lại bằng sáu miếng vải với nhau. Áo có xẻ ở trước thân áo, có may khuy cài trước ngực một đường ngắn khoảng 15cm, còn từ dưới ngực đến chân thì để hở. Áo có may ghép một mảnh vải màu trắng ở trước ngực và phần trên của thân sau một loại hoa văn bốn cánh hình cung nhọn. Cả sư buột thắt lưng, đội khăn.
Tu sĩ Chăm Hồi giáo Bà Ni còn đeo một chùm khăn đỏ ở trước ngực và 4 túi nhỏ ở phía sau. Cách phân biệt các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni thì cơ bản giống nhau chỉ có một số chi tiết khác nhau trên cạp váy, trên dây lưng.
1.2.3. Trang phục chức sắc tín ngưỡng Chăm
Y phục Ong Kadhar (thầy kéo đàn Kanhi): Thầy kadhar có sắc phục tương tự như cả sư Chăm Bàlamôn. Thầy kadhar mặc áo dài trắng, mặc váy trắng viền hoa văn rồng, đầu đội khăn có tua đỏ, vai vắt khăn đỏ và đeo túi.
Thầy kadhar – bên phải
Trang phục On-Ka-In (thầy bóng)
Trang phục tương tự như trang phục đàn ông bình dân Chăm là mặc áo ngắn, mặc khăn không có cạp váy và dây thắt lưng bằng vải trắng thô không có hoa văn, chỉ khác ở chỗ là ong ka in đội loại khăn có tua đỏ.
Loại khăn đội giống chức sắc tu sĩ tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo.
Trang phục muk Pajau (bà bóng)
Bà Bóng mặc áo dài phụ nữ Chăm trong nghi lễ nhưng áo đó phải là màu trắng, hoặc mặc váy trắng có cạp váy dệt hoa văn ở hai đầu váy, đầu đội khăn màu trắng có viền hoa văn và hai bên tai có đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ.
Trang phục muk Rija (vũ sư)
Mưduôn mặc áo dài màu trắng, cổ con, có xẻ vạy dọc từ dưới nách bên phải chạy đến phần chân người mặc. Mưduôn mặc loại váy thường và buộc dây lưng như đàn ông Chăm bình dân. Khăn đội đầu là loại khăn trắng, có tua màu đỏ tương tự như khăn các tu sĩ Chăm và một loại nữa là khăn trắng tua trắng.
Trang phục On Mưduôn (thầy vỗ trống basanưng)
Vũ sư mạc váy màu đen, mặc áo tương tự như áo dài truyền thống của phụ nữ Chăm (áo màu trắng), đầu đội khăn màu trắng, không có hoa văn và hai bên có đeo hoa tai có đính tua màu đỏ.
1.3. Trang phục của người bình dân.
1.3.1. Trang phục nam
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân.
Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp.
1.3.2. Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn, quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân… Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
2. Trang phục Chăm trong sinh hoạt thường ngày và lễ hội.
2.1. Trang phục hàng ngày và lao động.
Trang phục lao động: Người đàn ông Chăm khi làm ruộng nước thì hay mặc quần ngắn hai ống tới đầu gối, không mặc váy. Họ không mặc trang phục màu trắng trong lao động mà chủ yếu là sử dụng vải màu, loại vải cũ trơn, không có thêu hoa văn.
2.2. Trang phục trong tang lễ.
Trong tang lễ, cũng như trang phục liệm cho người chết, người Chăm thường sử dụng màu trắng. Trang phục đem theo cho người chết thường được phân chia theo tuổi tác và giai cấp. Nếu người chết thuộc giai cấp quí tộc khi chết đi thì được đem theo là 5 bộ hay 9 bộ. Nếu người chết thuộc tầng lớp bình dân thì quần áo đem theo là 4 bộ.
2.3. Trang phục trong ngày cưới.
- Trong ngày cưới kể cả cô dâu chú rể đều mặc trang phục truyền thống trong nghi lễ. Nữ mặc áo dài, mặc váy đội khăn. Nam cũng vậy, mặc váy áo lah đàn ông, đội khăn che mặt.
- Áo váy cưới có dệt hoa văn đẹp. Áo cưới có nhiều màu khác nhau như trắng, xanh, đỏ, vàng... nhưng trong nghi lễ phải mặc áo trắng. Trong ngày cưới, cô dâu chú rể đeo nhiều đồ trang sức như nhẫn, vòng tay, xâu chuỗi.
2.4. Trang phục trong ngày hội.
- Ngoài trang phục chức sắc, tu sĩ tín ngưỡng, tôn giáo với màu áo trắng khăn đỏ truyền thống không được thay đổi thì các chàng trai, cô gái Chăm lại mặc áo truyền thống với nhiều màu sặc sỡ, tinh nguyên (màu trắng, đỏ, xanh, vàng...)
- Thiếu nữ Chăm ngoài đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ, đeo nhiều còng tay, nhẫn vàng, họ còn choàng lên vai, vắt chéo qua ngang ngực và lưng một dãi băng ngang, trên đó có dệt hoa văn đẹp mắt.
3. Các bộ phận khác của trang phục
3.1. Trang sức
Người phụ nữ Chăm thường đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ hình nấm, hình tròn, hình vành khăn làm bằng vàng, đồng thau và có đính tua vải đỏ; cổ có đeo xâu chuỗi hột tròn hình bầu dục làm bằng vàng hoặc đồng thau, mặt nhẫn có đính hột đen được bao quanh bằng hoa 4 cánh.
Người đàn ông Chăm thì dùng trang sức đơn giản hơn, họ chỉ đeo đơn giản chiếc nhẫn tròn, mặt nhẫn có đính hột đen và được bao quanh bằng hình hoa 8 cánh mà họ thường gọi là chiếc nhẫn Mưta.
3.2. Đồ mang (guốc, dép)
Từ xưa vua chúa Chăm đã biết đi giày, mang dép bằng gỗ, da. Người dân đi guốc gỗ, da làm bằng v ải hoặc da trâu. Nhưng đó chỉ là một số, còn hầu hết người dân Chăm kể cả đàn ông, đàn bà đều đi chân đất. Ngày nay cũng giống như các dân tộc khác, người Chăm thường mang giầy dép công nghiệp.
4. Đặc trưng của trang phục Chăm
Trang phục Chăm chủ yếu là dùng chất liệu sẳn có trong thiên nhiên
như bông, tơ tằm...
Đặc trưng trang phục truyền thống Chăm mà chúng ta dễ nhận thấy
nhất là loại áo bít tà
Đặc trưng của trang phục Chăm là không trang trí hoa văn trên nền
vải áo, mà chủ yếu là được trang trí từng mảnh vải rồi may ghép vào
Trang phục Chăm, chủ yếu là áo mặc thường ngày cũng như trong
lễ hộihọ thường mặc áo với gam màu nóng
Trang phục của người Chăm thể hiện tính phồn thực,
gắn liền với tín ngưỡng, những điều kiêng cữ và cấm kỵ.
5. Ý nghĩa
Nói chung trang phục Chăm phong phú về kiểu dáng và đa dạng về sắc thái biểu hiện. Nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của con người (ăn, mặc,ở...), thể hiện được thẩm mỹ, phong tục tập quán, giới tính, giai cấp, mà nó còn in dấu ấn văn hoá, phản ánh đầy đủ về sắc thái, diện mạo một nền văn hoá Chăm.
Trang phục Chăm chính là kho tàng tư liệu phong phú, kho tàng ấy không chỉ dừng lại ở giá trị vật chất đơn thuần mà nó còn mang một giá trị văn hoá, lịch sử, nghệ thuật... của người Chăm.
II. LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG - DỆT THỔ CẨM
1. Vài nét về lịch sử
2. Nghề dệt thổ cẩm và hoa văn thổ cẩm Chăm
3. Công dụng và thực trạng
1. Vài nét về lịch sử
Truyền thuyết về Bà Chúa Xứ kể rằng: Po Inư Nưgar từ Trung Quốc trở về, đã đặt kinh đô Champa ở Nha Trang và dạy người Chăm - lúc đó còn trong thời kỳ mông muội - cày cấy, dệt vải, xây tháp, tổ chức hành chánh...
Theo Lê Quí Đôn ( Vân Đài Loại Ngữ ): “Ở Lâm Ấp có trồng cây cát bối, khi chín hoa cây giống như lông ngỗ, kéo sợi làm chỉ dệt khăn không khác gì loại gai”. Còn theo G. Maspero thì dưới thời các vương triều Champa, người Chăm đã biết trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa.
Trông suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XVIII, người ta tìm thấy các nét hoa văn được chạm trổ thật tinh vi trên các tượng đá ( Shi va, Apsara...), vương mão đầu thế kỷ thứ XVII hiện vẫn còn được lưu giữ ở một làng Raglai tỉnh Ninh Thuận.
Từ các cứ liệu này, chúng ta có thể khẳng định rằng nghề dệt thổ cẩm Chăm đã hình thành từ rất sớm và đã phát triển đến mức tinh xảo.
2. Nghề dệt thổ cẩm và hoa văn thổ cẩm Chăm
2.1. Nghề dệt thổ cẩm
2.1.1. Nguyên liệu
Người Chăm thường trồng bông để lấy sợi. Kỷ thuật lấy sợi và mắc thành cuộn sợi dọc ( nuh papan ) theo các qui trình sau (thể hiện qua vật liệu):
Quy trình lấy sợi và
mắc thành cuộn
Khung xỏ go
Giá tách hạt
Cung bật bông
Giá mắc sợi
Xa đánh ống
Xa bắt chỉ
Xa quấn tơ
Đây là cả một qui trình khá phức tạp và công phu
2.1.2. Phẩm nhuộm
Nguyên liệu và kỷ thuật nhuộm ngày xưa hầu như đã thất truyền và không còn sử dụng nữa. Người ta chỉ nhớ mang máng truyền khẩu là:
Màu đen được nhuộm bằng lá chùm bầu, sau đó ngâm với bùn non từ ba đến bảy ngày đêm liên tục.
Màu nâu hoặc màu đỏ sậm lấy từ các loại vỏ cây.
Màu xanh từ cây chàm...
2.1.3. Kỹ thuật dệt
Có 2 loại khung: Loại dệt dạng tấm và loại dệt dạng dải.
- Loại dệt dạng tấm: Là loại dệt ra các sản phẩm như: Khăn bàn, xà rông, khăn quàng, mền, drap... với kích thước tối đa là 95cm - 240cm.
- Loại dệt dạng dải: Dệt ra các sản phẩm như: Jih, dalah, dây lưng... với kích thước 2cm, 24cm - 100cm.
Hai loại khung này gồm nhiều bộ phận rời được lắp ghép lại với nhau ở khung dệt dải, thợ dệt ngồi trên ghế, cần thêm một thợ phụ để giúp kéo go. Trong khi ở khung dệt tấm, người thợ ngồi bẹp xuống nền nhà, vận dụng cả thân người với sợi dây giăng thật căng.
2.2. Hoa văn thổ cẩm Chăm
Hoa văn thổ cẩm Chăm rất phong phú và đa dạng. Ngoài ra các hoa văn đã thất truyền, nghệ nhân Thuận Thị Trụ đã sưu tầm được hơn 30 hoa văn nền. Từ đó chị đã cách điệu ra khoảng 50 hoa văn khác.
Trong sinh hoạt xã hội Chăm, người ta có thể phân biệt giai cấp hoặc mức độ sang hèn chỉ qua hoa văn trên y phục của đối tượng được quan sát.
Điểm nổi bật của sản phẩm dệt Chăm là nhuộm bằng chất liệu có từ thiên nhiên…
3. Công dụng và thực trạng
Sản phẩm thổ cẩm của người Chăm được sử dụng trong trang phục truyền thống của mọi giai tầng xã hội. Ngày xưa, những tấm thổ cẩm có chất lượng cao được dâng lên cho vua chúa, cho các tăng lữ Bàlamôn và tầng lớp quý tộc.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, đặc biệt là sự từ bỏ một cách tự phát trang phục truyền thống của đa số thanh niên Chăm, trang phục truyền thống hầu như chỉ còn được sử dụng trong lễ hội.
Với xu hướng phát triển của cơ chế thị trường hiện nay, làng nghề truyền thống đang chuyển thành làng nghề công nghiệp. Việc gìn giữ làng nghề truyền thống với chất liệu thô, phương pháp thủ công trong nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Chăm là rất cần thiết. Các cơ quan chức năng cần có các chính sách và biện pháp cấp bách để bảo tồn làng nghề dệt truyền thống độc đáo này
DANH SÁCH NHÓM 3
1. PHẠM VĂN CƯỜNG
2. NGUYỄN VĂN KHÁNH
3. TRẦN TẤN VIỆT
4. TRẦN VĂN KIÊN
5. NGÔ THỊ THỦY
6. NGHIÊM THỊ TÂN
7. LÊ THỊ NGỌC HIỆP
8. VŨ THỊ LÊ
I. CÁC LOẠI TRANG PHỤC CHĂM
1. Trang phục của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Chăm.
2. Trang phục Chăm trong sinh hoạt thường ngày và lễ hội.
3. Các bộ phận khác của trang phục
4. Đặc trưng của trang phục Chăm
5. Ý nghĩa
1.1. Trang phục vua chúa Chăm.
Y phục vua Chúa Chăm gồm có áo bào bằng lụa, có hoa bằng vàng, trên nền đen hay xanh lá cây.Áo lót bằng vải trắng, nhỏ sợi mịn màng, đôi khi có thêu dệt hay viền tua bằng vàng.
Ở ngang lưng đeo bên ngoài lễ phục một cái đai vàng nạm ngọc và trang trí những vòng hoa.
Vua đi dép da đỏ, còn giầy và ủng thì thêu và nạm ngọc, cổ, ngón tay, ngực vua thì mang rất nhiều đồ trang sức bằng vàng, những chuỗi ngọc xanh…Vua được che bằng một cái lọng trắng.
1.2.1. Trang phục tu sĩ Bàlamôn Chăm
Nói chung trang phục của cả sư là tiêu biểu cho tu sĩ đạo Bàlamôn. Cả sư mặc áo trắng, mặc váy, buộc dây lưng và khăn đội đầu.
Các trang phục của tu sĩ cấp dưới cơ bản đều giống trang phục của cả sư nhưng chỉ khác và phân biệt được với nhau ở chỗ là áo của cả sư, ống tay được may hai lớp vải, còn tu sĩ bình thường chỉ được may một lớp vải.
Cả sư thì mặc váy có cạp váy hình rồng, thắt dây lưng có hoa văn hai mặt nhiều hoa văn. Còn tu sĩ cấp bình thường, mặc váy trơn, không có cạp váy và thắt dây lưng có hoa văn thường như hoa văn quả trám, hoa văn con thằn lằn...
1.2.2. Trang phục tu sĩ chăm Hồi giáo - Bà Ni
Cả sư mặc áo dài phình rộng, được ghép lại bằng sáu miếng vải với nhau. Áo có xẻ ở trước thân áo, có may khuy cài trước ngực một đường ngắn khoảng 15cm, còn từ dưới ngực đến chân thì để hở. Áo có may ghép một mảnh vải màu trắng ở trước ngực và phần trên của thân sau một loại hoa văn bốn cánh hình cung nhọn. Cả sư buột thắt lưng, đội khăn.
Tu sĩ Chăm Hồi giáo Bà Ni còn đeo một chùm khăn đỏ ở trước ngực và 4 túi nhỏ ở phía sau. Cách phân biệt các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni thì cơ bản giống nhau chỉ có một số chi tiết khác nhau trên cạp váy, trên dây lưng.
1.2.3. Trang phục chức sắc tín ngưỡng Chăm
Y phục Ong Kadhar (thầy kéo đàn Kanhi): Thầy kadhar có sắc phục tương tự như cả sư Chăm Bàlamôn. Thầy kadhar mặc áo dài trắng, mặc váy trắng viền hoa văn rồng, đầu đội khăn có tua đỏ, vai vắt khăn đỏ và đeo túi.
Thầy kadhar – bên phải
Trang phục On-Ka-In (thầy bóng)
Trang phục tương tự như trang phục đàn ông bình dân Chăm là mặc áo ngắn, mặc khăn không có cạp váy và dây thắt lưng bằng vải trắng thô không có hoa văn, chỉ khác ở chỗ là ong ka in đội loại khăn có tua đỏ.
Loại khăn đội giống chức sắc tu sĩ tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo.
Trang phục muk Pajau (bà bóng)
Bà Bóng mặc áo dài phụ nữ Chăm trong nghi lễ nhưng áo đó phải là màu trắng, hoặc mặc váy trắng có cạp váy dệt hoa văn ở hai đầu váy, đầu đội khăn màu trắng có viền hoa văn và hai bên tai có đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ.
Trang phục muk Rija (vũ sư)
Mưduôn mặc áo dài màu trắng, cổ con, có xẻ vạy dọc từ dưới nách bên phải chạy đến phần chân người mặc. Mưduôn mặc loại váy thường và buộc dây lưng như đàn ông Chăm bình dân. Khăn đội đầu là loại khăn trắng, có tua màu đỏ tương tự như khăn các tu sĩ Chăm và một loại nữa là khăn trắng tua trắng.
Trang phục On Mưduôn (thầy vỗ trống basanưng)
Vũ sư mạc váy màu đen, mặc áo tương tự như áo dài truyền thống của phụ nữ Chăm (áo màu trắng), đầu đội khăn màu trắng, không có hoa văn và hai bên có đeo hoa tai có đính tua màu đỏ.
1.3. Trang phục của người bình dân.
1.3.1. Trang phục nam
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân.
Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp.
1.3.2. Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn, quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân… Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
2. Trang phục Chăm trong sinh hoạt thường ngày và lễ hội.
2.1. Trang phục hàng ngày và lao động.
Trang phục lao động: Người đàn ông Chăm khi làm ruộng nước thì hay mặc quần ngắn hai ống tới đầu gối, không mặc váy. Họ không mặc trang phục màu trắng trong lao động mà chủ yếu là sử dụng vải màu, loại vải cũ trơn, không có thêu hoa văn.
2.2. Trang phục trong tang lễ.
Trong tang lễ, cũng như trang phục liệm cho người chết, người Chăm thường sử dụng màu trắng. Trang phục đem theo cho người chết thường được phân chia theo tuổi tác và giai cấp. Nếu người chết thuộc giai cấp quí tộc khi chết đi thì được đem theo là 5 bộ hay 9 bộ. Nếu người chết thuộc tầng lớp bình dân thì quần áo đem theo là 4 bộ.
2.3. Trang phục trong ngày cưới.
- Trong ngày cưới kể cả cô dâu chú rể đều mặc trang phục truyền thống trong nghi lễ. Nữ mặc áo dài, mặc váy đội khăn. Nam cũng vậy, mặc váy áo lah đàn ông, đội khăn che mặt.
- Áo váy cưới có dệt hoa văn đẹp. Áo cưới có nhiều màu khác nhau như trắng, xanh, đỏ, vàng... nhưng trong nghi lễ phải mặc áo trắng. Trong ngày cưới, cô dâu chú rể đeo nhiều đồ trang sức như nhẫn, vòng tay, xâu chuỗi.
2.4. Trang phục trong ngày hội.
- Ngoài trang phục chức sắc, tu sĩ tín ngưỡng, tôn giáo với màu áo trắng khăn đỏ truyền thống không được thay đổi thì các chàng trai, cô gái Chăm lại mặc áo truyền thống với nhiều màu sặc sỡ, tinh nguyên (màu trắng, đỏ, xanh, vàng...)
- Thiếu nữ Chăm ngoài đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ, đeo nhiều còng tay, nhẫn vàng, họ còn choàng lên vai, vắt chéo qua ngang ngực và lưng một dãi băng ngang, trên đó có dệt hoa văn đẹp mắt.
3. Các bộ phận khác của trang phục
3.1. Trang sức
Người phụ nữ Chăm thường đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ hình nấm, hình tròn, hình vành khăn làm bằng vàng, đồng thau và có đính tua vải đỏ; cổ có đeo xâu chuỗi hột tròn hình bầu dục làm bằng vàng hoặc đồng thau, mặt nhẫn có đính hột đen được bao quanh bằng hoa 4 cánh.
Người đàn ông Chăm thì dùng trang sức đơn giản hơn, họ chỉ đeo đơn giản chiếc nhẫn tròn, mặt nhẫn có đính hột đen và được bao quanh bằng hình hoa 8 cánh mà họ thường gọi là chiếc nhẫn Mưta.
3.2. Đồ mang (guốc, dép)
Từ xưa vua chúa Chăm đã biết đi giày, mang dép bằng gỗ, da. Người dân đi guốc gỗ, da làm bằng v ải hoặc da trâu. Nhưng đó chỉ là một số, còn hầu hết người dân Chăm kể cả đàn ông, đàn bà đều đi chân đất. Ngày nay cũng giống như các dân tộc khác, người Chăm thường mang giầy dép công nghiệp.
4. Đặc trưng của trang phục Chăm
Trang phục Chăm chủ yếu là dùng chất liệu sẳn có trong thiên nhiên
như bông, tơ tằm...
Đặc trưng trang phục truyền thống Chăm mà chúng ta dễ nhận thấy
nhất là loại áo bít tà
Đặc trưng của trang phục Chăm là không trang trí hoa văn trên nền
vải áo, mà chủ yếu là được trang trí từng mảnh vải rồi may ghép vào
Trang phục Chăm, chủ yếu là áo mặc thường ngày cũng như trong
lễ hộihọ thường mặc áo với gam màu nóng
Trang phục của người Chăm thể hiện tính phồn thực,
gắn liền với tín ngưỡng, những điều kiêng cữ và cấm kỵ.
5. Ý nghĩa
Nói chung trang phục Chăm phong phú về kiểu dáng và đa dạng về sắc thái biểu hiện. Nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của con người (ăn, mặc,ở...), thể hiện được thẩm mỹ, phong tục tập quán, giới tính, giai cấp, mà nó còn in dấu ấn văn hoá, phản ánh đầy đủ về sắc thái, diện mạo một nền văn hoá Chăm.
Trang phục Chăm chính là kho tàng tư liệu phong phú, kho tàng ấy không chỉ dừng lại ở giá trị vật chất đơn thuần mà nó còn mang một giá trị văn hoá, lịch sử, nghệ thuật... của người Chăm.
II. LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG - DỆT THỔ CẨM
1. Vài nét về lịch sử
2. Nghề dệt thổ cẩm và hoa văn thổ cẩm Chăm
3. Công dụng và thực trạng
1. Vài nét về lịch sử
Truyền thuyết về Bà Chúa Xứ kể rằng: Po Inư Nưgar từ Trung Quốc trở về, đã đặt kinh đô Champa ở Nha Trang và dạy người Chăm - lúc đó còn trong thời kỳ mông muội - cày cấy, dệt vải, xây tháp, tổ chức hành chánh...
Theo Lê Quí Đôn ( Vân Đài Loại Ngữ ): “Ở Lâm Ấp có trồng cây cát bối, khi chín hoa cây giống như lông ngỗ, kéo sợi làm chỉ dệt khăn không khác gì loại gai”. Còn theo G. Maspero thì dưới thời các vương triều Champa, người Chăm đã biết trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa.
Trông suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XVIII, người ta tìm thấy các nét hoa văn được chạm trổ thật tinh vi trên các tượng đá ( Shi va, Apsara...), vương mão đầu thế kỷ thứ XVII hiện vẫn còn được lưu giữ ở một làng Raglai tỉnh Ninh Thuận.
Từ các cứ liệu này, chúng ta có thể khẳng định rằng nghề dệt thổ cẩm Chăm đã hình thành từ rất sớm và đã phát triển đến mức tinh xảo.
2. Nghề dệt thổ cẩm và hoa văn thổ cẩm Chăm
2.1. Nghề dệt thổ cẩm
2.1.1. Nguyên liệu
Người Chăm thường trồng bông để lấy sợi. Kỷ thuật lấy sợi và mắc thành cuộn sợi dọc ( nuh papan ) theo các qui trình sau (thể hiện qua vật liệu):
Quy trình lấy sợi và
mắc thành cuộn
Khung xỏ go
Giá tách hạt
Cung bật bông
Giá mắc sợi
Xa đánh ống
Xa bắt chỉ
Xa quấn tơ
Đây là cả một qui trình khá phức tạp và công phu
2.1.2. Phẩm nhuộm
Nguyên liệu và kỷ thuật nhuộm ngày xưa hầu như đã thất truyền và không còn sử dụng nữa. Người ta chỉ nhớ mang máng truyền khẩu là:
Màu đen được nhuộm bằng lá chùm bầu, sau đó ngâm với bùn non từ ba đến bảy ngày đêm liên tục.
Màu nâu hoặc màu đỏ sậm lấy từ các loại vỏ cây.
Màu xanh từ cây chàm...
2.1.3. Kỹ thuật dệt
Có 2 loại khung: Loại dệt dạng tấm và loại dệt dạng dải.
- Loại dệt dạng tấm: Là loại dệt ra các sản phẩm như: Khăn bàn, xà rông, khăn quàng, mền, drap... với kích thước tối đa là 95cm - 240cm.
- Loại dệt dạng dải: Dệt ra các sản phẩm như: Jih, dalah, dây lưng... với kích thước 2cm, 24cm - 100cm.
Hai loại khung này gồm nhiều bộ phận rời được lắp ghép lại với nhau ở khung dệt dải, thợ dệt ngồi trên ghế, cần thêm một thợ phụ để giúp kéo go. Trong khi ở khung dệt tấm, người thợ ngồi bẹp xuống nền nhà, vận dụng cả thân người với sợi dây giăng thật căng.
2.2. Hoa văn thổ cẩm Chăm
Hoa văn thổ cẩm Chăm rất phong phú và đa dạng. Ngoài ra các hoa văn đã thất truyền, nghệ nhân Thuận Thị Trụ đã sưu tầm được hơn 30 hoa văn nền. Từ đó chị đã cách điệu ra khoảng 50 hoa văn khác.
Trong sinh hoạt xã hội Chăm, người ta có thể phân biệt giai cấp hoặc mức độ sang hèn chỉ qua hoa văn trên y phục của đối tượng được quan sát.
Điểm nổi bật của sản phẩm dệt Chăm là nhuộm bằng chất liệu có từ thiên nhiên…
3. Công dụng và thực trạng
Sản phẩm thổ cẩm của người Chăm được sử dụng trong trang phục truyền thống của mọi giai tầng xã hội. Ngày xưa, những tấm thổ cẩm có chất lượng cao được dâng lên cho vua chúa, cho các tăng lữ Bàlamôn và tầng lớp quý tộc.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, đặc biệt là sự từ bỏ một cách tự phát trang phục truyền thống của đa số thanh niên Chăm, trang phục truyền thống hầu như chỉ còn được sử dụng trong lễ hội.
Với xu hướng phát triển của cơ chế thị trường hiện nay, làng nghề truyền thống đang chuyển thành làng nghề công nghiệp. Việc gìn giữ làng nghề truyền thống với chất liệu thô, phương pháp thủ công trong nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Chăm là rất cần thiết. Các cơ quan chức năng cần có các chính sách và biện pháp cấp bách để bảo tồn làng nghề dệt truyền thống độc đáo này
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Thị Hòa
Dung lượng: |
Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)