Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản giao đoạn 1939-1945
Chia sẻ bởi nguyễn thị cẩm tú |
Ngày 18/03/2024 |
59
Chia sẻ tài liệu: vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản giao đoạn 1939-1945 thuộc Lý luận chính trị
Nội dung tài liệu:
Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam giai đoạn 1939-1945
BÀI THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I . HOÀN CẢNH LỊCH SỬ :
A . Tình hình Thế Giới :
Ngày 1-1-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3-9-1939, Anh-Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lợi dụng tình hình chiến tranh, chính phủ Daladie thi hành hàng loạt những biện pháp thẳng tay đàn áp các lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Tướng Mỹ Douglas McArthur ký nhận đầu hàng vô điều kiện của Nhật
Người Nhật bại trận và mất quyền kiểm soát Đông Dương . Pháp quay lại chiếm Đông Dương vì lý do chính trị và tâm lý hơn là kinh tế. Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để mất Đông Dương, sở hữu của Pháp ở hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo . Đa số lãnh đạo Pháp cho rằng so với một cuộc xâm chiếm thuộc địa cổ điển với việc chiếm giữ các trung tâm dân số và mở rộng dần theo kiểu "vết dầu loang" mà người Pháp đã thực hiện rất thành công ở Maroc và Algeria, cuộc chiến này sẽ chỉ có quy mô hơn một chút.
B . Tình hình Việt Nam :
Tình hình chính trị :
Tháng 6/1940 ,chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Chính quyền thực dân ở Đông Dương tăng cường vơ vét
sức người sức của phục vụ chiến tranh. Thực dân Pháp ra Nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, giải tán các hội ái hữu, đóng cửa các tờ báo tiến bộ, truy lùng và bắt bớ các chiến sĩ cánh mạng, các nhà yêu nước, đày đi các trại tập trung, các nhà tù.
Cuối tháng 9/1940, Nhật vượt biên giới Việt- Trung tiến vào Việt Nam, giữ nguyên bộ máy thống trị của thực dân Pháp để vơ vét kinh tế phục vụ chiến tranh ; ra sức tuyên truyền lừa bịp nhân dân để dọn đường cho việc hất cẳng Pháp sau này.
Nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “ một cổ hai tròng”.
Thực dân Pháp chặt đầu của những người yêu nước để đàn áp cách mạng
Cụ thể là :
Hiệp định 30/8/1940 giữa chính quyền G. de Vichy (Pháp) và Chính phủ Nhật, tiếp sau đó là thoả ước 22/9/1940 giữa toàn quyền Đông Dương và tư lệnh quân Nhật cho phép Nhật chiếm đóng bắc Sông Hồng.
Hiệp định "Phòng thủ chung Đông Dương" (23/7/1941) và thoả ước 29/7/1941 cho phép Nhật Bản chiếm đóng và sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực toàn Đông Dương.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, tình thế cách mạng xuất hiện.
2. Tình hình kinh tế- xã hội :
Thực dân Pháp thi hành chính sách “ kinh tế chỉ huy ” nhằm huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp- Nhật câu kết để bóc lột nhân ta ( cướp ruộng đất, bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay…)
Đẩy nhân dân vào cảnh cùng cực.
Nạn đói 1945 làm gần 2 triệu đồng bào chết đói.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.
Đảng ta trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chủ trương đó được thể hiện trong nghị quyết Trung ương 6 (11/1939), nghị quyết trung ương lần VII (11/1940) và nghị quyết trung ương lần VIII (5/1941) .
Mâu thuẫn xã hội đã thay đổi , toàn bộ các tầng lớp giai cấp (trừ bọn tay sai cho Pháp) đều thấy quyền lợi của mình bị đe doạ và chính vì vậy mà vấn đề giải phóng dân tộc trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết .
Những chuyển biến trong những năm 1939- 1945 đòi hỏi Đảng phải kịp thời nắm bắt tình hình để đề ra đường lối đấu tranh phù hợp .
Nạn đói 1945
Pháp , Nhật cùng chia chác lợi nhuận , bóc lột nhân dân ta .
II . SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐCS ViỆT NAM:
A . SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC PHÙ HỢP VỚI TÌNH HÌNH MỚI :
Hội nghị BCH Đảng Cộng sản Đông dương tháng 11/1939 ( Hội Nghị TW lần thứ 6 )
Từ bối cảnh lịch sử trên quá trình điều chỉnh , phát triển tiến tới hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng được tiêu biểu qua các Hội nghị quan trọng sau :
Địa điểm: Bà Điểm ( Hóc Môn_ Gia Định ) do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì , được coi là sự mở đầu cho việc điều chỉnh chủ trương cách mạng của Đảng .
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ
Nội dung:
+ Nhiệm vụ trước mắt: đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
+ Chủ trương: Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và thành lập chính quyền Xô viết công nông binh, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc, địa chủ phản động và lập Chính phủ dân chủ cộng hòa.
+ Phương pháp : chuyển sang hoạt động bí mật
+ Thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng- đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới.
a. khởi nghĩa Bắc Sơn ( 27-9-1940)
b. Khởi nghĩa Nam Kì ( 23-11-1940)
c. Binh biến Đô Lương ( 13-1-1941
Nhận xét:
Lãnh đạo: Do tổ chức Đảng và lực lượng ngoài Đảng
Thành phần tham gia: các tầng lớp nhân dân ( chủ yếu là nông dân) và binh lính người Việt trong quân đội Pháp.
Địa bàn: cả 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Nguyên nhân thất bại: Thời cơ chưa chín muồi trong cả nước, kẻ thù còn mạnh.
Ý nghĩa: báo hiệu thời kì mới của CM Việt Nam- thời kì đấu tranh vũ trang trong toàn quốc để giành chính quyền
Hội nghị TW Đảng 11/1940 ( Hội Nghị TW lần thứ 7 )
Hội nghị họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940 tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), do đồng chí Trường Chinh chủ trì trong bối cảnh phát xít Nhật đổ bộ chiếm đóng Đông Dương, thực dân Pháp từng bước nhượng bộ và đầu hàng Nhật, nhân dân Việt Nam chịu cảnh "một cổ hai tròng" thống trị của Pháp - Nhật. Khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra (ngày 27-9-1940), Xứ uỷ Nam Kỳ sau nhiều lần thảo luận đã chủ trương phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa.
Hội nghị cho rằng, chính sách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện lao vào chiến tranh, càng làm cho mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc, xô đẩy các tầng lớp nhân dân đi theo giai cấp vô sản.
Hội nghị dự đoán: “ Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo (tức lãnh đạo - TG) cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập! ”.
Đồng chí Trường Chinh
Hội nghị chủ trương: đi đôi với việc mở rộng Mặt trận phản đế, phải lựa chọn những người hăng hái nhất trong các đoàn thể của Mặt trận, tổ chức các đội tự vệ, trực tiếp vũ trang cho dân chúng, tổ chức nhân dân cách mạng quân, tiến lên vũ trang bạo động.
Hội nghị vạch rõ : kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phátxít Pháp - Nhật. Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế lúc này thực chất là Mặt trận dân tộc thống nhất chống phátxít Pháp - Nhật ở Đông Dương.
Hội nghị đã phân tích, đánh giá : khởi nghĩa Bắc Sơn và quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn làm cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển lực lượng cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm.
Về việc xem xét đề nghị khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ, Hội nghị nhận định điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nên không cho phép phát động khởi nghĩa.
Đồng chí Phan Đăng Lưu được Hội nghị giao trách nhiệm truyền đạt quyết định của Trung ương Đảng cho Xứ uỷ Nam Kỳ. Đây là một chủ trương sáng suốt của Hội nghị Trung ương tháng 11-1940, thể hiện việc nắm vững lý luận về khởi nghĩa vũ trang cách mạng.
LÁ CỜ ĐỎ SAO VÀNG LẦN ĐẦU TIÊN XUẤT HIỆN
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.
Khởi nghĩa Nam Kì _ 23/11/1940
Nguyễn Hữu Tiến
Hội nghị TW Đảng tháng 3/1941 ( Hội nghị TW lần thứ 8 )
Sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài. Ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt nam.
Hội nghị TW VIII.
+ Từ ngày 10 > 19-5-1941 Người chủ trì hội nghị TW VIII tại Pắc bó (Hà quảng- Cao bằng).
+ Xác định nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của CM là: Giải phóng dân tộc
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc
Hội nghị khẳng định :
tính chất đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tập trung mũi nhọn chống đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng
Hội nghị chỉ rõ : sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội nghị quyết định thay tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.
Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh : công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng, chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự, tăng thành phần vô sản trong Đảng.
Nhấn mạnh sự đoàn kết 3 dân tộc ở Đông Dương.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy.
Hội nghị có tác dụng quyết định trong cuộc vận động toàn Đảng toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
Kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân.
Hội nghị bầu BCHTW mới do đ/c Trường Chinh làm tổng bí thư
Xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.
+ Xây dựng lực lượng chính trị:
Ngày 19 -5 -1941 Mặt trận VM được thành lập. Cao bằng là nơi thí điểm xây dựng các” hội cứu quốc” chỉ trong thời gian ngắn mặt trận đã có uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân.
- Năm 1941 - 1942 9 châu ở Cao bằng đều có hội cứu quốc
(có 3 châu hoàn toàn).Tháng 11 - 1943 uỷ ban Việt minh Cao – Bắc – Lạng thành lập ra 19 ban xung phong “Nam tiến” để phát triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi
- Ở các nơi khác Đảng tranh thủ tập hợp nhân dân vào các mặt trận cứu quốc, năm 1943 đưa ra “Bản đề cương văn hoá Việt Nam” và vận động thành lập “hội văn hoá cứu quốc Việt Nam” vào cuối năm 1944, Đảng dân chủ Việt Nam 6/ 1944.
+ Xây dựng lực lượng vũ trang
- Cuối 1940, Đảng chủ trương xây dựng đội du kích Bắc Sơn thành những đội du kích hoạt động ở Bắc Sơn – Vũ Nhai
- Đến năm 1941 thống nhất các đội du kích thành “Trung đội cứu quốc quân 1”, 9/ 1941 xây dựng “Trung đội cứu quốc quân 2” và mở rộng địa bàn hoạt động ở Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
- Cuối 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập “Đội tự vệ vũ trang” để chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân (đã tổ chức lớp huấn luyện về chính trị – quân sự).
+ Xây dựng căn cứ cách mạng
- Bắc Sơn – Vũ Nhai và Cao Bằng là hai căn cứ đầu tiên của cách mạng. 2/ 1944, căn cứ cách mạng được mở rộng ở những tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn.
Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- 7/ 5/ 1944, tổng bộ Việt minh ra chỉ thị chuẩn bị khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân sắm sửa vũ khí đuổi kẻ thù chung, không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi sục.
- 22/ 12/ 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập và hai ngày sau đã hạ được đồn Phay – Khắt và Nà Ngần làm địch hoang mang lo sợ.
B . Sự Chuẩn bị về mọi mặt của đảng:
C . Sự lãnh đạo của Đảng trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
1. Giai đoạn khởi nghĩa từng phần 3/ 1945 – giữa 8/ 1945
a/ Hoàn cảnh
- Đầu 1945, chiến tranh thế giới II bước vào giai đoạn cuối. Phe phát xít bị tấn công dồn dập ở châu Âu và châu Á
- 8/ 1944, Pháp được giải phóng ,quân Pháp ở Đông Dương ngóc đầu dậy chờ thời cơ phản công Nhật, Mâu thuẫn Pháp – Nhật gay gắt
- Đêm 9/ 3/ 1945, Nhật đảo chính Pháp và đưa ra trò bịp “Tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam” và lập ra chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim
b/ Chủ trương của Đảng
- Ngay đêm 9/3/1945 hội nghị mở rộng ban thường vụ TW Đảng tại Đình Bảng – Từ Sơn (Bắc Ninh)
- 12/ 3/ 1945, TW Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và đề ra khẩu hiệu : “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” .Hơn nữa, để chống lại chính quyền của bọn tay sai thân Nhật, Hội nghị đưa ra khẩu hiệu "Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương" và chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa.
Những quyết định sáng suốt của Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng thể hiện sự kịp thời và sáng tạo trong nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trước các diễn biến nhanh chóng của thời cuộc. Những quyết định đó đã soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân tiến hành khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa.
Quân Nhật vào miền Bắc
c/ Cao trào kháng Nhật cứu nước ( 3/1945 – 8/1945 )
Ở căn cứ Cao – Bắc – Lạng, chính quyền nhân dân được thành lập ở nhiều xã – châu
Phong trào phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói ở Bắc Kỳ (Quảng Yên, Bắc Giang, Ninh Bình, Nghệ An …). Một số nơi đã giành được chính quyền
Khởi nghĩa từng phần diễn ra ở một số địa phương như Hiệp Hoà (Bắc Giang), Tiên Du (Bắc Ninh)
- 11/ 3/ 1945, tù chính trị ở Ba Tơ nổi dậy phá nhà lao, chiếm đồn giặc, lập ra chính quyền cách mạng, đội du kích Ba Tơ ra đời. Hàng loạt các nhà tù khác ở Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò nổi dậy.
Ở Nam Kỳ, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ.
d/ Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa.
Từ 15 đến 20- 4- 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, lập ra Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kì
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày 15-6-1945, Việt Nam cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 4-6-1945, Khu Giải phóng Việt Bắc thành lập gồm các tỉnh Cao- Bắc- Lạng- Hà- Tuyên- Thái . (Tân Trào – Tuyên Quang là thủ đô của khu giải phóng), uỷ ban lâm thời của khu giải phóng cũng được thành lập. Toàn Đảng toàn đan sẵn sàng chờ thòi cơ tổng khởi nghĩa
b/ Chủ trương của Đảng:
13/ 8/ 1945, TW Đảng và tổng bộ Việt Minh đã thành lập uỷ ban khởi nghĩa (23h cùng ngày ra quân lệnh số 1 phát lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc)
- 14/ 8 – 15/ 8, hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa và thông qua các vấn đề về chính sách đối nội – ngoại sau khi giành chính quyền.
- 16 – 17/ 8/ 1945, đại hội quốc dân do tổng bộ Việt Minh triệu tập tại Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, cử ra “uỷ ban dân tộc giải phóng” (tức chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại hội quyết định về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam.
2. Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945
a/ Nhật đầu hàng Đồng Minh – Lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố.
- 5/ 1945, Đức đầu hàng Đồng Minh
- 15/ 8/ 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim và tay sai hoang mang đến cực độ . Thời cơ “Ngàn năm có một đã đến”
- Ở trong nước, cao trào cách mạng dâng cao, khí thế cách mạng của quần chúng đang sôi sục sẵn sàng chờ lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng
c/Diễn biến Tổng khởi nghĩa.
- Ngày 16/8: đ/c Võ Nguyên Giáp chỉ huy một đơn vị giải phóng quân tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
- Ngày 18/8: 4 tỉnh giành được chính quyền sớm nhất cả nước ( Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam).
- Ngày 19/8: Giành chính quyền ở Hà Nội
- Ngày 23/8: Giành chính quyền ở Huế
- Ngày 25/8: Giành chính quyền ở Sài Gòn
- Ngày 28/8: Giành chính quyền ở 2 tỉnh cuối cùng là Đồng Nai và Hà Tiên
- Ngày 30/8: tại Ngọ môn (Huế) vua Bảo Đại đọc lời thoái vị, trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng.
Ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Tóm lại có thể khẳng định Đảng và nhân dân đã chuẩn bị lâu dài chu đáo cho cuộc KN 8/1945.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đem lại niềm tin tự giải phóng, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới
Lãnh đạo toàn dân làm Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Đảng ta lúc đó chỉ có 5.000 đảng viên và phải hoạt động bí mật, điều kiện thông tin liên lạc để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào toàn quốc hết sức khó khăn. Nhưng nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng và Bác Hồ, sự chủ động, sáng tạo của tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và nhân dân của các địa phương nên khởi nghĩa đã nổ ra đồng loạt và có sự phối hợp từng vùng, từng miền và trên phạm vi cả nước. Đó là bài học hết sức quý báu về sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng Đảng trong bất cứ thời kỳ cách mạng nào.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã định hướng cho chủ trương xây dựng lực lượng, phương thức đấu tranh, phương thức khởi nghĩa dành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám.
Xây dựng lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh coi trọng vai trò của giai cấp công nhân, nông dân Điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong chuẩn bị khởi nghĩa là chú trọng xây dựng cả 2 lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Cơ sở chính trị mở rộng đến đâu, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang đến đó…
Với thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỉ tại Việt Nam, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền và hoạt động công khai.
IV . ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG, BÀI HỌC VÀ Ý NGHĨA ĐẠT ĐƯỢC
Chủ trương điều chỉnh chiến lược cách mạng của đảng trong thời kỳ 1939-1945
Thứ nhất, Đảng đã kịp thời điều chỉnh chiến lược, nhằm tập trung giải quyết nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
“Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta”, trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng. Không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”;
“trong giai đoạn hiện tại…nếu không đánh đuổi được Pháp – Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được”. “Cuộc cách mạng ở Đông Dương là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”.
Thứ hai, Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa
Hình thức này đã nảy sinh từ cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) và phong trào Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939). Đến cuộc vận động cách mạng những năm 1939 - 1945, hình thức đấu tranh chính trị được vận dụng một cách phổ biến trong đại chúng. Ngoài công, nông, còn vận động được cả tiểu thương, tiểu chủ, cai ký, đốc công... cùng tham gia chống độc tài, phát-xít. Năm 1945, phát-xít Nhật - Pháp tăng cường vơ vét lương thực cho chiến tranh, gây nên thảm họa 2 triệu người Việt Nam chết đói, Đảng đã phát động một cao trào đấu tranh kết hợp chính trị với vũ trang: mít tinh, biểu tình đòi quyền sống, đi đôi với vũ trang phá kho thóc cứu đói, lập các căn cứ địa và các chiến khu cách mạng, tiến hành khởi nghĩa từng phần, thành lập chính quyền cách mạng địa phương, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
Thứ ba, sau khi giành độc lập, các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương muốn lập ra một chính phủ liên bang hay đứng riêng thành một quốc gia độc lập tùy ý. Đối với nước ta, sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của toàn quốc, Chính phủ do Quốc hội bầu ra.
Thứ tư, liên hiệp tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng chính trị, đảng phái vào một mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc thật rộng rãi, lấy liên minh công nông làm cơ sở. Muốn vậy cần phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. Trung ương quyết định thành lập “Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Việt Minh. Đối với các dân tộc Campuchia, Lào, Đảng chủ trương lập “ Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh”, và “Cao Miên độc lập đồng minh”, để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh. Còn các quần chúng thì lập thành các hội cứu quốc, phụ nữ cứu quôc,…v.v
Thứ năm chuyển hướng hình thức đấu tranh, từ đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp đòi quyền lợi dân chủ, dân sinh, sang đấu tranh chính trị bí mật, bất hợp pháp, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Chuẩn bị khởi nghia vũ trang là trung tâm của Đảng và nhân dân ta, phải ra sức chuẩn bị lực lượng trong toàn quốc và nhằm đúng vào những điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước…
Thứ sáu, nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ máu. Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành công, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên thế chủ động chiến lược. Đến nay, nhiều người mới rõ, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: năm 1945, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ thành công. Chương trình cứu nước của Việt Minh ra đời từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), đã đến tay những chiến sỹ cách mạng ở các địa phương, kể cả sự truyền miệng qua các lao tù.
-Từ hội nghị lần 6 đến Hội nghị lần thứ 8 của ban chấp hành Trung ương Đảng, sự điều chỉnh chiến lược của Đảng trong thời kỳ mới đã hoàn chỉnh.
Trong hoàn cảnh dân tộc ta một cổ đôi tròng mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội ta đã phát triển đến độ gay gắt nhất, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đặt ra một cách trực tiếp, quyền lợi dân tộc giải phóng đặt lên cao hơn hết. Đảng đã có chủ trương thực hiện cho được mục tiêu chủ yếu là độc lập dân tộc, đề ra hàng loạt chủ trương và biện pháp cách mạng đúng đắn, tích cực mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tích cực chuẩn bị và tiến lên khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền. Đường lối đó hợp với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, của các dân tộc ở Đông Dương, có khả năng động viên cả dân tộc đoàn kết đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật.
Sự điều chỉnh chiến lược đúng đắn đó đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng ta, thể hiện sự dày dạn kinh nghiệm , khôn khéo, kiên quyết tạo nên sức mạnh áp đảo kẻ thù.
Đây là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quần chúng được Đảng lãnh đạo, tổ chức, rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh trở thành lực lượng hùng hậu và nòng cốt.
Ý nghĩa của sự điều chỉnh chiến lược:
BÀI THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I . HOÀN CẢNH LỊCH SỬ :
A . Tình hình Thế Giới :
Ngày 1-1-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3-9-1939, Anh-Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lợi dụng tình hình chiến tranh, chính phủ Daladie thi hành hàng loạt những biện pháp thẳng tay đàn áp các lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Tướng Mỹ Douglas McArthur ký nhận đầu hàng vô điều kiện của Nhật
Người Nhật bại trận và mất quyền kiểm soát Đông Dương . Pháp quay lại chiếm Đông Dương vì lý do chính trị và tâm lý hơn là kinh tế. Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để mất Đông Dương, sở hữu của Pháp ở hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo . Đa số lãnh đạo Pháp cho rằng so với một cuộc xâm chiếm thuộc địa cổ điển với việc chiếm giữ các trung tâm dân số và mở rộng dần theo kiểu "vết dầu loang" mà người Pháp đã thực hiện rất thành công ở Maroc và Algeria, cuộc chiến này sẽ chỉ có quy mô hơn một chút.
B . Tình hình Việt Nam :
Tình hình chính trị :
Tháng 6/1940 ,chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Chính quyền thực dân ở Đông Dương tăng cường vơ vét
sức người sức của phục vụ chiến tranh. Thực dân Pháp ra Nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, giải tán các hội ái hữu, đóng cửa các tờ báo tiến bộ, truy lùng và bắt bớ các chiến sĩ cánh mạng, các nhà yêu nước, đày đi các trại tập trung, các nhà tù.
Cuối tháng 9/1940, Nhật vượt biên giới Việt- Trung tiến vào Việt Nam, giữ nguyên bộ máy thống trị của thực dân Pháp để vơ vét kinh tế phục vụ chiến tranh ; ra sức tuyên truyền lừa bịp nhân dân để dọn đường cho việc hất cẳng Pháp sau này.
Nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “ một cổ hai tròng”.
Thực dân Pháp chặt đầu của những người yêu nước để đàn áp cách mạng
Cụ thể là :
Hiệp định 30/8/1940 giữa chính quyền G. de Vichy (Pháp) và Chính phủ Nhật, tiếp sau đó là thoả ước 22/9/1940 giữa toàn quyền Đông Dương và tư lệnh quân Nhật cho phép Nhật chiếm đóng bắc Sông Hồng.
Hiệp định "Phòng thủ chung Đông Dương" (23/7/1941) và thoả ước 29/7/1941 cho phép Nhật Bản chiếm đóng và sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực toàn Đông Dương.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, tình thế cách mạng xuất hiện.
2. Tình hình kinh tế- xã hội :
Thực dân Pháp thi hành chính sách “ kinh tế chỉ huy ” nhằm huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp- Nhật câu kết để bóc lột nhân ta ( cướp ruộng đất, bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay…)
Đẩy nhân dân vào cảnh cùng cực.
Nạn đói 1945 làm gần 2 triệu đồng bào chết đói.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.
Đảng ta trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chủ trương đó được thể hiện trong nghị quyết Trung ương 6 (11/1939), nghị quyết trung ương lần VII (11/1940) và nghị quyết trung ương lần VIII (5/1941) .
Mâu thuẫn xã hội đã thay đổi , toàn bộ các tầng lớp giai cấp (trừ bọn tay sai cho Pháp) đều thấy quyền lợi của mình bị đe doạ và chính vì vậy mà vấn đề giải phóng dân tộc trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết .
Những chuyển biến trong những năm 1939- 1945 đòi hỏi Đảng phải kịp thời nắm bắt tình hình để đề ra đường lối đấu tranh phù hợp .
Nạn đói 1945
Pháp , Nhật cùng chia chác lợi nhuận , bóc lột nhân dân ta .
II . SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐCS ViỆT NAM:
A . SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC PHÙ HỢP VỚI TÌNH HÌNH MỚI :
Hội nghị BCH Đảng Cộng sản Đông dương tháng 11/1939 ( Hội Nghị TW lần thứ 6 )
Từ bối cảnh lịch sử trên quá trình điều chỉnh , phát triển tiến tới hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng được tiêu biểu qua các Hội nghị quan trọng sau :
Địa điểm: Bà Điểm ( Hóc Môn_ Gia Định ) do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì , được coi là sự mở đầu cho việc điều chỉnh chủ trương cách mạng của Đảng .
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ
Nội dung:
+ Nhiệm vụ trước mắt: đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
+ Chủ trương: Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và thành lập chính quyền Xô viết công nông binh, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc, địa chủ phản động và lập Chính phủ dân chủ cộng hòa.
+ Phương pháp : chuyển sang hoạt động bí mật
+ Thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng- đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới.
a. khởi nghĩa Bắc Sơn ( 27-9-1940)
b. Khởi nghĩa Nam Kì ( 23-11-1940)
c. Binh biến Đô Lương ( 13-1-1941
Nhận xét:
Lãnh đạo: Do tổ chức Đảng và lực lượng ngoài Đảng
Thành phần tham gia: các tầng lớp nhân dân ( chủ yếu là nông dân) và binh lính người Việt trong quân đội Pháp.
Địa bàn: cả 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Nguyên nhân thất bại: Thời cơ chưa chín muồi trong cả nước, kẻ thù còn mạnh.
Ý nghĩa: báo hiệu thời kì mới của CM Việt Nam- thời kì đấu tranh vũ trang trong toàn quốc để giành chính quyền
Hội nghị TW Đảng 11/1940 ( Hội Nghị TW lần thứ 7 )
Hội nghị họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940 tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), do đồng chí Trường Chinh chủ trì trong bối cảnh phát xít Nhật đổ bộ chiếm đóng Đông Dương, thực dân Pháp từng bước nhượng bộ và đầu hàng Nhật, nhân dân Việt Nam chịu cảnh "một cổ hai tròng" thống trị của Pháp - Nhật. Khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra (ngày 27-9-1940), Xứ uỷ Nam Kỳ sau nhiều lần thảo luận đã chủ trương phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa.
Hội nghị cho rằng, chính sách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện lao vào chiến tranh, càng làm cho mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc, xô đẩy các tầng lớp nhân dân đi theo giai cấp vô sản.
Hội nghị dự đoán: “ Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo (tức lãnh đạo - TG) cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập! ”.
Đồng chí Trường Chinh
Hội nghị chủ trương: đi đôi với việc mở rộng Mặt trận phản đế, phải lựa chọn những người hăng hái nhất trong các đoàn thể của Mặt trận, tổ chức các đội tự vệ, trực tiếp vũ trang cho dân chúng, tổ chức nhân dân cách mạng quân, tiến lên vũ trang bạo động.
Hội nghị vạch rõ : kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phátxít Pháp - Nhật. Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế lúc này thực chất là Mặt trận dân tộc thống nhất chống phátxít Pháp - Nhật ở Đông Dương.
Hội nghị đã phân tích, đánh giá : khởi nghĩa Bắc Sơn và quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn làm cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển lực lượng cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm.
Về việc xem xét đề nghị khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ, Hội nghị nhận định điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nên không cho phép phát động khởi nghĩa.
Đồng chí Phan Đăng Lưu được Hội nghị giao trách nhiệm truyền đạt quyết định của Trung ương Đảng cho Xứ uỷ Nam Kỳ. Đây là một chủ trương sáng suốt của Hội nghị Trung ương tháng 11-1940, thể hiện việc nắm vững lý luận về khởi nghĩa vũ trang cách mạng.
LÁ CỜ ĐỎ SAO VÀNG LẦN ĐẦU TIÊN XUẤT HIỆN
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.
Khởi nghĩa Nam Kì _ 23/11/1940
Nguyễn Hữu Tiến
Hội nghị TW Đảng tháng 3/1941 ( Hội nghị TW lần thứ 8 )
Sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài. Ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt nam.
Hội nghị TW VIII.
+ Từ ngày 10 > 19-5-1941 Người chủ trì hội nghị TW VIII tại Pắc bó (Hà quảng- Cao bằng).
+ Xác định nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của CM là: Giải phóng dân tộc
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc
Hội nghị khẳng định :
tính chất đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tập trung mũi nhọn chống đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng
Hội nghị chỉ rõ : sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội nghị quyết định thay tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.
Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh : công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng, chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự, tăng thành phần vô sản trong Đảng.
Nhấn mạnh sự đoàn kết 3 dân tộc ở Đông Dương.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy.
Hội nghị có tác dụng quyết định trong cuộc vận động toàn Đảng toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
Kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân.
Hội nghị bầu BCHTW mới do đ/c Trường Chinh làm tổng bí thư
Xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.
+ Xây dựng lực lượng chính trị:
Ngày 19 -5 -1941 Mặt trận VM được thành lập. Cao bằng là nơi thí điểm xây dựng các” hội cứu quốc” chỉ trong thời gian ngắn mặt trận đã có uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân.
- Năm 1941 - 1942 9 châu ở Cao bằng đều có hội cứu quốc
(có 3 châu hoàn toàn).Tháng 11 - 1943 uỷ ban Việt minh Cao – Bắc – Lạng thành lập ra 19 ban xung phong “Nam tiến” để phát triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi
- Ở các nơi khác Đảng tranh thủ tập hợp nhân dân vào các mặt trận cứu quốc, năm 1943 đưa ra “Bản đề cương văn hoá Việt Nam” và vận động thành lập “hội văn hoá cứu quốc Việt Nam” vào cuối năm 1944, Đảng dân chủ Việt Nam 6/ 1944.
+ Xây dựng lực lượng vũ trang
- Cuối 1940, Đảng chủ trương xây dựng đội du kích Bắc Sơn thành những đội du kích hoạt động ở Bắc Sơn – Vũ Nhai
- Đến năm 1941 thống nhất các đội du kích thành “Trung đội cứu quốc quân 1”, 9/ 1941 xây dựng “Trung đội cứu quốc quân 2” và mở rộng địa bàn hoạt động ở Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
- Cuối 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập “Đội tự vệ vũ trang” để chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân (đã tổ chức lớp huấn luyện về chính trị – quân sự).
+ Xây dựng căn cứ cách mạng
- Bắc Sơn – Vũ Nhai và Cao Bằng là hai căn cứ đầu tiên của cách mạng. 2/ 1944, căn cứ cách mạng được mở rộng ở những tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn.
Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- 7/ 5/ 1944, tổng bộ Việt minh ra chỉ thị chuẩn bị khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân sắm sửa vũ khí đuổi kẻ thù chung, không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi sục.
- 22/ 12/ 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập và hai ngày sau đã hạ được đồn Phay – Khắt và Nà Ngần làm địch hoang mang lo sợ.
B . Sự Chuẩn bị về mọi mặt của đảng:
C . Sự lãnh đạo của Đảng trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
1. Giai đoạn khởi nghĩa từng phần 3/ 1945 – giữa 8/ 1945
a/ Hoàn cảnh
- Đầu 1945, chiến tranh thế giới II bước vào giai đoạn cuối. Phe phát xít bị tấn công dồn dập ở châu Âu và châu Á
- 8/ 1944, Pháp được giải phóng ,quân Pháp ở Đông Dương ngóc đầu dậy chờ thời cơ phản công Nhật, Mâu thuẫn Pháp – Nhật gay gắt
- Đêm 9/ 3/ 1945, Nhật đảo chính Pháp và đưa ra trò bịp “Tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam” và lập ra chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim
b/ Chủ trương của Đảng
- Ngay đêm 9/3/1945 hội nghị mở rộng ban thường vụ TW Đảng tại Đình Bảng – Từ Sơn (Bắc Ninh)
- 12/ 3/ 1945, TW Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và đề ra khẩu hiệu : “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” .Hơn nữa, để chống lại chính quyền của bọn tay sai thân Nhật, Hội nghị đưa ra khẩu hiệu "Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương" và chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa.
Những quyết định sáng suốt của Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng thể hiện sự kịp thời và sáng tạo trong nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trước các diễn biến nhanh chóng của thời cuộc. Những quyết định đó đã soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân tiến hành khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa.
Quân Nhật vào miền Bắc
c/ Cao trào kháng Nhật cứu nước ( 3/1945 – 8/1945 )
Ở căn cứ Cao – Bắc – Lạng, chính quyền nhân dân được thành lập ở nhiều xã – châu
Phong trào phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói ở Bắc Kỳ (Quảng Yên, Bắc Giang, Ninh Bình, Nghệ An …). Một số nơi đã giành được chính quyền
Khởi nghĩa từng phần diễn ra ở một số địa phương như Hiệp Hoà (Bắc Giang), Tiên Du (Bắc Ninh)
- 11/ 3/ 1945, tù chính trị ở Ba Tơ nổi dậy phá nhà lao, chiếm đồn giặc, lập ra chính quyền cách mạng, đội du kích Ba Tơ ra đời. Hàng loạt các nhà tù khác ở Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò nổi dậy.
Ở Nam Kỳ, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ.
d/ Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa.
Từ 15 đến 20- 4- 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, lập ra Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kì
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày 15-6-1945, Việt Nam cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 4-6-1945, Khu Giải phóng Việt Bắc thành lập gồm các tỉnh Cao- Bắc- Lạng- Hà- Tuyên- Thái . (Tân Trào – Tuyên Quang là thủ đô của khu giải phóng), uỷ ban lâm thời của khu giải phóng cũng được thành lập. Toàn Đảng toàn đan sẵn sàng chờ thòi cơ tổng khởi nghĩa
b/ Chủ trương của Đảng:
13/ 8/ 1945, TW Đảng và tổng bộ Việt Minh đã thành lập uỷ ban khởi nghĩa (23h cùng ngày ra quân lệnh số 1 phát lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc)
- 14/ 8 – 15/ 8, hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa và thông qua các vấn đề về chính sách đối nội – ngoại sau khi giành chính quyền.
- 16 – 17/ 8/ 1945, đại hội quốc dân do tổng bộ Việt Minh triệu tập tại Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, cử ra “uỷ ban dân tộc giải phóng” (tức chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại hội quyết định về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam.
2. Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945
a/ Nhật đầu hàng Đồng Minh – Lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố.
- 5/ 1945, Đức đầu hàng Đồng Minh
- 15/ 8/ 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim và tay sai hoang mang đến cực độ . Thời cơ “Ngàn năm có một đã đến”
- Ở trong nước, cao trào cách mạng dâng cao, khí thế cách mạng của quần chúng đang sôi sục sẵn sàng chờ lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng
c/Diễn biến Tổng khởi nghĩa.
- Ngày 16/8: đ/c Võ Nguyên Giáp chỉ huy một đơn vị giải phóng quân tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
- Ngày 18/8: 4 tỉnh giành được chính quyền sớm nhất cả nước ( Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam).
- Ngày 19/8: Giành chính quyền ở Hà Nội
- Ngày 23/8: Giành chính quyền ở Huế
- Ngày 25/8: Giành chính quyền ở Sài Gòn
- Ngày 28/8: Giành chính quyền ở 2 tỉnh cuối cùng là Đồng Nai và Hà Tiên
- Ngày 30/8: tại Ngọ môn (Huế) vua Bảo Đại đọc lời thoái vị, trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng.
Ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Tóm lại có thể khẳng định Đảng và nhân dân đã chuẩn bị lâu dài chu đáo cho cuộc KN 8/1945.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đem lại niềm tin tự giải phóng, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới
Lãnh đạo toàn dân làm Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Đảng ta lúc đó chỉ có 5.000 đảng viên và phải hoạt động bí mật, điều kiện thông tin liên lạc để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào toàn quốc hết sức khó khăn. Nhưng nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng và Bác Hồ, sự chủ động, sáng tạo của tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và nhân dân của các địa phương nên khởi nghĩa đã nổ ra đồng loạt và có sự phối hợp từng vùng, từng miền và trên phạm vi cả nước. Đó là bài học hết sức quý báu về sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng Đảng trong bất cứ thời kỳ cách mạng nào.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã định hướng cho chủ trương xây dựng lực lượng, phương thức đấu tranh, phương thức khởi nghĩa dành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám.
Xây dựng lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh coi trọng vai trò của giai cấp công nhân, nông dân Điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong chuẩn bị khởi nghĩa là chú trọng xây dựng cả 2 lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Cơ sở chính trị mở rộng đến đâu, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang đến đó…
Với thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỉ tại Việt Nam, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền và hoạt động công khai.
IV . ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG, BÀI HỌC VÀ Ý NGHĨA ĐẠT ĐƯỢC
Chủ trương điều chỉnh chiến lược cách mạng của đảng trong thời kỳ 1939-1945
Thứ nhất, Đảng đã kịp thời điều chỉnh chiến lược, nhằm tập trung giải quyết nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
“Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta”, trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng. Không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”;
“trong giai đoạn hiện tại…nếu không đánh đuổi được Pháp – Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được”. “Cuộc cách mạng ở Đông Dương là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”.
Thứ hai, Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa
Hình thức này đã nảy sinh từ cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) và phong trào Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939). Đến cuộc vận động cách mạng những năm 1939 - 1945, hình thức đấu tranh chính trị được vận dụng một cách phổ biến trong đại chúng. Ngoài công, nông, còn vận động được cả tiểu thương, tiểu chủ, cai ký, đốc công... cùng tham gia chống độc tài, phát-xít. Năm 1945, phát-xít Nhật - Pháp tăng cường vơ vét lương thực cho chiến tranh, gây nên thảm họa 2 triệu người Việt Nam chết đói, Đảng đã phát động một cao trào đấu tranh kết hợp chính trị với vũ trang: mít tinh, biểu tình đòi quyền sống, đi đôi với vũ trang phá kho thóc cứu đói, lập các căn cứ địa và các chiến khu cách mạng, tiến hành khởi nghĩa từng phần, thành lập chính quyền cách mạng địa phương, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
Thứ ba, sau khi giành độc lập, các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương muốn lập ra một chính phủ liên bang hay đứng riêng thành một quốc gia độc lập tùy ý. Đối với nước ta, sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của toàn quốc, Chính phủ do Quốc hội bầu ra.
Thứ tư, liên hiệp tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng chính trị, đảng phái vào một mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc thật rộng rãi, lấy liên minh công nông làm cơ sở. Muốn vậy cần phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. Trung ương quyết định thành lập “Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Việt Minh. Đối với các dân tộc Campuchia, Lào, Đảng chủ trương lập “ Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh”, và “Cao Miên độc lập đồng minh”, để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh. Còn các quần chúng thì lập thành các hội cứu quốc, phụ nữ cứu quôc,…v.v
Thứ năm chuyển hướng hình thức đấu tranh, từ đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp đòi quyền lợi dân chủ, dân sinh, sang đấu tranh chính trị bí mật, bất hợp pháp, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Chuẩn bị khởi nghia vũ trang là trung tâm của Đảng và nhân dân ta, phải ra sức chuẩn bị lực lượng trong toàn quốc và nhằm đúng vào những điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước…
Thứ sáu, nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ máu. Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành công, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên thế chủ động chiến lược. Đến nay, nhiều người mới rõ, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: năm 1945, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ thành công. Chương trình cứu nước của Việt Minh ra đời từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), đã đến tay những chiến sỹ cách mạng ở các địa phương, kể cả sự truyền miệng qua các lao tù.
-Từ hội nghị lần 6 đến Hội nghị lần thứ 8 của ban chấp hành Trung ương Đảng, sự điều chỉnh chiến lược của Đảng trong thời kỳ mới đã hoàn chỉnh.
Trong hoàn cảnh dân tộc ta một cổ đôi tròng mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội ta đã phát triển đến độ gay gắt nhất, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đặt ra một cách trực tiếp, quyền lợi dân tộc giải phóng đặt lên cao hơn hết. Đảng đã có chủ trương thực hiện cho được mục tiêu chủ yếu là độc lập dân tộc, đề ra hàng loạt chủ trương và biện pháp cách mạng đúng đắn, tích cực mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tích cực chuẩn bị và tiến lên khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền. Đường lối đó hợp với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, của các dân tộc ở Đông Dương, có khả năng động viên cả dân tộc đoàn kết đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật.
Sự điều chỉnh chiến lược đúng đắn đó đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng ta, thể hiện sự dày dạn kinh nghiệm , khôn khéo, kiên quyết tạo nên sức mạnh áp đảo kẻ thù.
Đây là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quần chúng được Đảng lãnh đạo, tổ chức, rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh trở thành lực lượng hùng hậu và nòng cốt.
Ý nghĩa của sự điều chỉnh chiến lược:
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: nguyễn thị cẩm tú
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)