Ung dung tia lazer trong y hoc

Chia sẻ bởi Nguyễn Đình Hậu | Ngày 19/03/2024 | 15

Chia sẻ tài liệu: ung dung tia lazer trong y hoc thuộc Công nghệ thông tin

Nội dung tài liệu:

TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN
SEMINA: Ứng dụng lazer trong y học
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Mỹ Điệp.
1 MỞ ĐẦU
Lazer ra đời là một trong những phát minh quan trọng nhất của thế kỷ XX. Ngày nay ở nhiều lĩnh vực công nghệ lazer đã có công dụng ứng dụng đến vài chục năm. Nhưng trong lĩnh vực y học lâm sàng, việc ứng dụng kỹ thuật lazer chỉ mới giai đoạn đầu. Riêng trong ngành phẩu thuật, công nghệ lazer đã tìm cho mình được chỗ đứng. Các phương pháp được áp dụng trong lĩnh vực này đều tận dụng được những tính chất vật lý đặc biệt là cho phép làm việc cực kỳ chính xác trong một khoảng thời gian hết sức hẹp, đồng thời hạn chế rất đòi hỏi sức chịu đựng của bệnh nhân. Các lĩnh vực ứng dụng trải dài từ sinh kích thích, qua cắt và phá huỷ các cấu trúc sinh học bằng nhiệt, tới việc lấy đi và là phẳng các mô. Mấy năm gần đây công nghệ lazer cũng đã xâm nhập vào ngành chuẩn đoán y học và nha khoa
2 Ứng dụng của kỹ thuật lazer vào y học cổ truyền.
Phương pháp châm cứu tức người ta dùng các kim nhỏ, chích vào các huyệt của người bệnh, người ta xoay nhẹ các kim nhỏ, kích thích cơ học vào các huyệt đạo trên cơ thể con người để chữa bệnh.
Một trong những nhược điểm chính của châm cứu dùng kim là nếu như chúng ta vệ sinh các kim không kỹ hoặc do tác động của môi trường các kim sẽ gây nhiễm trùng hoặc có thể lây truyền bệnh qua đường kim. Ngày nay người ta dùng liệu pháp tia lazer để châm cứu.
Nguyên tắc của phương pháp này không có gì khó khăn, ta dựa vào khả năng đâm xuyên của chùm tia lazer. Các tia lazer được chiếu đi sâu vào trong các huyệt đạo, sự tương tác của các photon trong chùm tia với các mô ở huyệt đạo gây ra sự kích thích có tác dụng giống sự kích thích cơ.
Ưu điểm của việc dùng tia lazer châm cứu là có thể tiến hành ma không phải dùng kim, tính chính xác đến các huyệt đạo. Nguồn lazer dùng cho châm cứu thường có công suất thấp và ít bị nước hấp thu.
3 Liệu pháp lazer quang động học và nhiệt học.
Dưới tác dụng của ánh sáng, mô sinh học sẽ thay đổi cấu trúc của nó. Đây là quá trinh tương tác giữa các photon và phân tử. Thể loại và tiến trình phản ứng phụ thuộc vào bản chất của mô bị chiếu xạ cũng như phụ thuộc vào bước sóng, mật độ năng lượng và thời gian chiếu xạ của ánh sáng lazer đã dùng. Chúng được chia ra làm ba loại: các phản ứng quang hóa ở mật độ công suất thấp nhưng bù lại thời gian chiếu xạ dài; các phản ứng nhiệt học ở mật độ công suất cao thời gian chiếu xạ ngắn; và các quá trình quang phi tuyến ở mật độ công suất cực lớn( vượt 10MV/cm2) và thời gian chiếu xạ siêu ngắn ( tối đa vài nanô giây). Trong y học hiện nay chỉ dùng các tương tác quang động học và nhiệt học của ánh sáng lazer với mô sinh học cho các phương pháp trị liệu.
Từ xưa, ánh sáng đã được dùng để trị liệu, chẳng hạn để điều trị bệnh vàng da ở trẻ em sơ sinh. Bình thường thì chất màu biliburin trong mật, một sản phẩm phân hủy của chất màu trong máu là huyết cầu, thông qua quá trình trao đổi chất, gần như hoàn toàn bị thải ra ngoài. Nhưng điều đó chỉ được thực hiện một cách hạn hẹp ở trẻ sơ sinh vì do chưa đủ chính về mặt sinh lý của một loại enzyn của gan. Khi nồng độ biliburin tăng lên cao, nếu có tác dụng của ánh sáng xanh lơ (425 đến 475nm), chất này sẽ nhờ quang hóa mà chuyển thành những izome không độc sẽ được thải ra ngoài.

Với liệu pháp trị khối u quang động học bằng ánh sáng lazer, bệnh nhân được tiêm, uống hay đưa vào cục bộ một chất nhạy quang. Hoạt chất nhạy cảm với ánh sáng này sẽ tập trung với nồng độ rất cao ở khối u. Sau đó chiếu xạ vùng khối u bằng ánh sáng lazer sẽ xảy ra một quá trình quang hóa, chất nhạy quang sẽ truyền năng lượng thu được qua hấp thụ ánh sáng cho các phân tử khác. Khi đó sẽ xuất hiện những hợp chất có hoạt tính cực mạnh gọi là gốc, chúng sẽ phản ứng với các phân tử tế bào khác và qua đó phân hủy mô tế bào bị bệnh một cách có chọn lọc.
Các chất nhạy quang còn tạo được một khả năng khác để sử dụng kỹ thuật này trong y học, đó là chúng giao lại bằng cách tự phát quang năng lượng kích thích dưới dạng ánh sáng, tức chúng huỳnh quang. Nếu một chất nhạy quang như vậy được làm giàu một cách chọn lọc trong khối u, thì qua quá trình quang kích thích bằng ánh sáng lazer và sự chứng minh bằng ánh sáng huỳnh quang khi nó bức xạ ra, chúng ta có một phương pháp hiện hình khối u rất nhạy.

Liệu pháp lazer quang động học ngày nay đã được ứng dụng cho hầu hết những co quan mà phương pháp nội soi có thể cập nhật: các khoa tai, mũi, họng, khoa dạ dày-ruột, khoa tiết niệu và phụ khoa, cũng như khoa da liễu với các bệnh ngoài da. Như kinh nghiệm đã thu được ở khoa dạ dày - ruột, liệu pháp lazer quang động học đặc biệt thích hợp với việc chứng minh và điều trị các khối u nhỏ, hoặc trên các khối bề mặt, nhưng cũng cho cả việc chiếu xạ trên cả bề mặt cho các vùng loạn niêm mạc loạn hình, tức là các phát triển sai lạc.
Các chất nhạy quang hiện đại, trong trường hợp lí tưởng được dùng cho cả việc trị liệu và chuẩn đoán, có độ chọn lọc cao đối với khối u lành- ác, có tác dụng phụ không đáng kể và có khả năng hập thụ ánh sáng rất cao. Nếu dùng axit δ-aminolevulin thì lúc đầu chưa có tính chất này. Axit δ- aminolevulin là một chất do cơ thể sinh ra, xuất hiện như sản phẩm trung gian trong sự tái hợp porphyrin. Với chức năng là thành phần chất màu của hồng huyết cầu( chất màu của máu)
và diệp lục tố( chất màu của lá cây), các porphyrin là những chất cơ bản của sự sống.
Hình 1 phẫu thuật da và phẫu thuật chân.
Khi thừa porphyrin do đưa từ ngoài vào, chẳng hạn qua đường ăn uống, sẽ gây rối loạn tức thời, cũng chính là ước muốn về mặt liệu pháp cho sự sinh hợp porphyrin. Hệ quả là do có sự gia tăng của việc sản sinh ra một chất nhạy sáng protoporphyrin. Sau 4 đến 6 giờ cấp một liều axit δ- aminolevulin khi nồng độ của chất nhạy quang trong dạ dày và ruột đạt cao nhất. Khi đó ở các ruột có khối u thì lượng tích lũy sẽ cao gấp sáu đến tám lần. Sau đó chiếu xạ bằng ánh lazer(635nm) ở cực đại hấp thụ của chất nhạy quang sẽ phá hủy ở các khối u niêm mạc và các loạn sản, niêm mạc chỉ trong ba đến bốn ngày. Còn chính ánh sáng lazer không để lại di chứng nhiệt gì ở mô bởi vì đã chọn mật độ công suất thích hợp; hiện tượng xuất huyết hay thủng ở các cơ quan là hoàn toàn không có thể.
Cũng có thể dùng protoprphyrin cho việc chuẩn đoán. Huỳnh quang đỏ đặc trưng của hợp chất này có thể được kích thích bởi lazer krypton(407nm). Qua tích lũy chọn lọc chất nhạy quang trong các tế bào đã thay đổi một cách loạn hình hay bởi u ác, huỳnh quang này giới hạn một cách rõ rệt với mô xung quanh và khi quan sát qua máy nội soi, cũng có thể nhận biết bằng mắt thường. Phương pháp dò bằng huỳnh quang này đã được áp dụng có kết quả trong ngành niệu học.
3.2 liệu pháp lazer nhiệt.
Ứng dụng lazer thông thường nhất trong ngành phẫu thuật là dựa vào tác dụng nhiệt của chùm sáng hội tụ. Tùy theo thể loại lazer và những thông số nhiễu xạ đã chọn chúng ta có thể thu được những hiệu ứng trị liệu khác nhau. Các hiệu ứng này phụ thuộc rất nhiều vào các tính chất nhiệt và các tính chất quang của mô bị chiếu xạ.
Hình 2 phẫu thuật tim và phẫu thuật làm đẹp.
Trong ngành phẫu thuật thường dùng lazer neodym-YAG. Bức xạ hồng ngoại(1064nm) của lazer này hầu như không bị nước hấp và có thể đi sâu vào mô hơn của ánh sang lazer argon và Co2. Tuỳ thuộc vào năng lượng đã dùng mà độ đâm xuyên của chum tia đạt tới vài milimet.
Các khối u ác tính trong ruột và dạ dày, chỉ có thể chữa khỏi nếu như chúng ta cắt bỏ hoàn toàn chúng. Tất cả các biện pháp điều trị chúng chỉ là giảm đau chứ không loại trừ được nguyên nhân. Ngay cả khi dùng lazer cũng chỉ là biện pháp tam thời. Chẳng hạn, ung thư biểu bì thực quản không mổ được để mở rộng khoảng trống còn lại. Chúng ta dùng liệu pháp lazer, chúng ta dẫn dây dẫn sang uốn được của một lazer neodyn-YAG đi qua ống dụng cụ của máy nội soi, hướng một cách có định hướng vào khối u. Khi xuất hiện khói và nó phải liên tục hút ra. Nếu làm đông tụ một cách thận trọng sẽ không xuất hiện sự chảy máu. Sau vài ngày mô bị phá huỷ tự động bị thải ra ngoài.
Bệnh ung thư biểu bì ruột già. Các phương pháp tạm trị như liệu pháp lazer hay liệu pháp lạnh có thể phòng ngừa việc phải đặt một hậu môn nhân tạo. Với liệu pháp lạnh thì mô sẽ bị phá huỷ bằng nitơ lỏng( ở nhiệt độ -196oC). Theo kinh nghiệm điều trị thì cả hai phương pháp đều có giá trị như nhau. Nhưng phương pháp lazer dễ sử dụng hơn. Bệnh nhân chỉ cần gây mê nhẹ. Trường hợp như trong quá trình cắt tách mô đã bị phá huỷ có xuất hiện những chỗ rỉ máu, chúng ta có thể cầm máu không khó khăn bằng lazer neodyn- YAG.
Di căn của khối u ở đại tràng và đại tràng sigma chủ yếu là cố định ở gan và nguyên nhân gây tử vong chính ở nhóm bệnh nhân này. Không phải mọi di căn đều được loại bỏ nhờ phẫu thuật. Như thế chúng ta nên dùng liệu pháp nhiệt do lazer khơi mào để phá huỷ những di căn. Khi đó những mô gan lành được miễn trừ mà không bị đụng tới. Những máy lazer dùng để điều trị ung thư loại mới được phát minh(lazer applicator) dùng nước làm lạnh và máy tính dùng để cung cấp năng lượng, cho phép đông tụ một cách đều đặn các di căn, nhưng trước đó những di căn này phải được kiểm tra bằng máy siêu âm.
Việc chính có thể thực hiện nhờ hoặc nhờ phẫu thuật mỏ, nhờ gương ở bụng, hoặc bằng lazer applicator trực tiếp qua thành bụng. Việc chính trên bụng đã được mở cho chúng ta khả năng nghiên cứu toàn bộ cơ quan, kể cả các hạch bạch huyết. Ngoài ra còn có thể ngắt một thời gian ngắn sự chảy máu ở gan, vì vậy có thể làm đông tụ trên những diện khá lớn. Trái lại, hai phương pháp kia cho phép ứng dụng nhiều lần khi bệnh ung thư tiếp tục tiến triển. Những di căn lớn phải chích nhiều lần để có thể phá huỷ chúng một cách hoàn toàn. Chỉ xảy ra sự chảy máu trong khi chích, còn khi đưa máy lazer applicator vào sẽ cầm máu ngay.
Trong những ngày tiếp theo, những vùng đông tụ sẽ phân rõ ranh giới với mô lành. Khi đó mô gan đã bị phân huỷ sẽ bị loại ra và từ rìa, sẽ dần dần được thay thế bởi mô sẹo. Nếu di căn trực tiếp ngay cạnh một ống mật lớn sẽ có thể xuất hiện một khối rỗng có chứa mật, thường thì điều này chẳng gây ra vấn đề gì cho bệnh nhân.
Liệu pháp nhiệt do lazer khơi mào cũng được ứng dụng vào các khoa phẫu thuật thần kinh và niệu học với tư cách là một phương pháp nương nhẹ và xâm nhập tối thiểu vào bệnh nhân.
4 Các ứng dụng của kỹ thuật lazer trong khoa tai-mũi-họng.
Ngày nay, trong khoa này lazer đã tạo cho bác sỹ phẫu thuật điều kiện làm việc dễ dàng trong nhiều lĩnh vực.
Lazer CO2 bức xạ ánh sang trong miền hồng ngoại trung bình ở bước sóng vào khoảng 10μm. Các phân tử nước hấp thụ ánh sang này rất mạnh nên năng lượng của tia lazer sẽ được tiêu thụ ngay trên bề mặt nước. Tia lazer không đi sâu vào những khoảng không gian có chứa nước, nhưng với đường kính của chum tia rất nhỏ thì tia lazer vẫn có thể làm cho mô bay hơi và qua đó sẽ cắt nó.
Lazer neodyn-YAG rất thích hợp để làm teo những phù nề và các mô chứa nhiều nước khác, chẳng hạn bướu thịt ở mũi.
Hồng huyết cầu, chất màu đỏ của máu, hấp thụ ánh sáng có bước sóng nằm trong khoảng 500 đến 600 nm. Những lazer bức xạ ánh sáng trong miền quang phổ này sẽ được dùng để điều trị các bọt máu nhỏ và trung bình hay cầm máu cho chứng chảy máu cam.
Ngoài ra lazer liên tục nêu trên, trong khoa tai-mũi-họng cũng còn dùng các lazer xung ngắn. Chúng tạo ra những chớp rất ngắn có công suất rất cao. Năng lượng rất cao được giải phóng cục bộ, được ứng dụng để bóc những lát xương mỏng hay phá huỷ cao răng hay các sỏi.
4.1 Phẫu thuật cổ
Các khối u ở họng, thực quản hay thanh quản thường được cắt bỏ ngay cả khối. Phương pháp này làm như vậy đòi hỏi lớn về mặt phẫu thuật, phụ thuộc vào độ lớn của khối u và gây mất sức cho bệnh nhân. Nếu ta dùng một tia sáng cắt chính xác của một lazer CO2, được điều khiển một vi máy điều khiển có kiểm tra bằng kính hiển vi, sẽ để lại những tổn thương nhỏ hơn rất nhiều, thậm chí chẳng cần tái xử lý nhờ phẫu thuật. Các lazer này có thể được ứng dụng trong nhiều trường hợp điều trị. Với thanh quản ở những khối u rất rộng, ta có thể can thiệp nhờ phẫu thuật lazer mà vẫn giữ được hoàn toàn hay một phần giọng nói. Thêm vào đó qua liệu pháp lazer có thể rút ngắn rất nhiều thời gian điều trị nội trú và giảm đáng kể tỷ lệ biến chứng.
Các lazer neodym- YAG và lazer CO2 rất thích hợp với việc cắt nhỏ những amiđan vòm miệng quá lớn. Nếu dùng lazer cắt amiđan quá lớn, các mạch máu cầm ngay nhờ nhiệt. Như vậy, phương pháp này cho phép phẫu thuật không chảy máu và vì vậy ngày nay có thể tiến hành bằng điều trị ngoại trú.
4.2 Phẫu thuật mũi.
Mũi chính là cơ quan điều hoà nhiệt độ cho phổi. Nó hâm nóng và làm ẩm không khí. Mũi dùng tới ba khối phồng- các cánh bướm mũi- khi không khí khô và lạnh nó sẽ phồng lên. Chúng được xếp lên nhau và hoạt động theo cặp. Nhưng nếu phồng quá lớn và quá lâu sẽ cản trở sự thở bằng mũi. Đây là bệnh phổ biến ở các nước phát triển, nơi mà mọi người tiếp xúc nhiều với máy điều hoà và lò sưởi.
Với bệnh này liệu pháp lazer sẽ rất đáng tin cậy trong việc cắt nhỏ các cánh bướm dưới. Nếu kết hợp dùng các kỹ thuật nội soi sẽ cho phép điều trị ngoại trú, chiếu xạ và trực tiếp quan sát. Mô sẽ teo lại, hình thành các vết sẹo và mũi lại thông suốt như trước. Cần gây mê cục bộ nhẹ nhàng trên bề mặt niêm mạc là đủ. Các đường gân thường hình thành trong các vách ngăn trong mũi, ngày nay cũng dễ dàng cắt bỏ bằng tia lazer.
Nhiều người sau những lần sổ mũi thông thường, lại liên tục bị viêm xoang phụ. Đó là do khe hẹp- giải phẫu gây ra, khe này nằm sát bên cạnh cánh bướm giữa xoang chính ở mũi. Ở đấy cũng là các lối vào xoang phụ. Dùng lazer sẽ dễ dàng cắt bỏ những khe hẹp này. Bác sỹ phẫu thuật sẽ cắt nhỏ những cánh bướm giữa cũng như các cấu trúc khác ở thành ngoài của mũi, bằng ccách đó tỷ lệ tái phát sẽ giảm hẳn.
4.3 Phẫu thuật tai.
Lazer CO2 thành công lớn trong phẫu thuật tai: ở các tiểu cốt thính giác rất nhạy cảm, các bác sỹ phẫu thuật mà không cần tiếp xúc. Ngoài ra phương pháp này còn cho phép cắt bỏ các xụn mà không làm các chỗ xung quanh bị tổn thất vì nhiệt.
Bằng cách này cũng có thể mở tai trong mà không gây nguy hiểm gì. Điều này rất cần thiết ở một số bệnh nhân, bệnh xơ cứng tai là quá trình thay đổi lại các xụn, tiến hành song song với sự tiến triển dần dần của các nghễnh ngạng và bệnh ù tai. Việc đục lỗ màng nhĩ mà không cần tiếp xúc cũng hết sức dễ dàng thực hiện nhờ phẫu thuật bằng lazer.
Người ta cũng có thể dùng các lazer xung để làm phá huỷ nhưng viên sỏi ở các tuyến nước bọt vì chúng cản trở sự thông suốt bình thường của nước bọt. Tuy nhiên, những viên sỏi này có thể nhìn được qua máy nội soi. Do nước bọt bị kẹt lại nên các bệnh nhân này- đặc biệt sau khi ăn- tuyến nước bọt sẽ sưng tấy lên và gây đau đớn.
Thông qua việc sử dụng lazer, trong ngành tai-mũi-họng đã có thể tiến hành một cách hết sức nhẹ nhàng, bảo vệ bệnh nhân.
4.4 Phẫu thuật giác mạc trong nhãn khoa
Trong ngành nhãn khoa ở lĩnh vực phẫu thuật giác mạc, người ta dùng lazer excimer. Phần chính của lazer loại này là một ống khí chịu áp suất cao chứa một hỗn hợp gồm khí trơ và khí halogen. Qua phóng điện cao áp, sẽ xuất hiện những phân tử có thời gian sống cực kỳ ngắn là các halogenua khí hiếm ở trạng thái kích thích và chúng lại giải phóng ngay tức thì năng lượng của chúng dưới dạng bức xạ tử ngoại. Tuỳ thuộc vào chất khí trong ống mà bước sóng nằm giữa 193nm (florua argon) và 351nm (florua xenon). Trong thời gian xung ánh sáng bức xạ cỡ 30ns.
Bằng một hệ thống quang học cho ánh sáng tử ngoại đi qua, bức xạ lazer này được lái vào mắt bệnh nhân. Trên bề mặt giác mạc, các xung ánh sáng sẽ bị một lớp mỏng, chỉ cỡ 250nm hấp thụ hoàn toàn. Lớp này tiêu thụ toàn bộ năng lượng của xung lazer và ngay lập tức hoá hơi, không kịp cho mô xung quanh trong thời gian tác dụng ngắn như vậy có thể bị phá huỷ. Bằng cách này ta đã có trong tay một khả năng gia công vật liệu ưu việt hơn rất nhiều so với các phương pháp vi phẫu khác.
Điều có ý nghĩa quyết định cho thị lực chính là bề mặt đều đặn, trong suốt và phẳng của giác mạc. Nhưng những can thiệp thông thường của phẫu thuật, chẳng hạn như bằng dao mổ trên bình diện vi mô sẽ luôn phá huỷ mô. Cơ thể sẽ phản ứng và gây ra sẹo là nguyên nhân gây bệnh mờ giác mạc. Ngay sự can thiệp phẫu thuật bằng lazer excimer cũng sẽ khơi mào cho một phản ứng viêm tấy ở mô, nhưng ta vẫn có thể giới hạn được ở một mức độ nhỏ nếu đều đặn nhỏ thuốc vào mắt. Sau đó trong một thời gian vài tháng, trên kính hiển vi sẽ nhận thấy được một sự vẩn đục nhẹ như sương nhưng chỉ trong những trường hợp hữu hạn mới ảnh hưởng tới thị lực.
Một ứng dụng phổ biến là phẫu thuật giác mạckhúc xạ: với các mắt cận thị, viễn thị hay loạn thị do sự mất cân đối giữa các tiêu điểm của dụng cụ quang học giác mạc(cornea) và thuỷ tinh thể(lens) và chiều dài của nhãn cầu. Điều này thường được sửa tật(correction) bằng cách đeo một thấu kính hội tụ hay phân kỳ dưới dạng kính cận, kính viễn hoặc kính áp tròng. Một cách sửa tật khác là có thể thay đổi bán kính cong của bề mặt giác mạc bằng lazer excimer.
Các lĩnh vực ứng dụng khác cho phẫu thuật của lazer là lấy đi các vết sẹo, sự mốc mô lạ ở giác mạc và các mô đã hỏng trên bề mắt giác mạc ở những giác mạc thoái hoá hay những tổn thương như bị hỏng. Như vậy ngày nay chunngs ta có thể điều trị những bệnh và những tổn thương ở giác mạc mà trước đây chỉ có thể xử lý bằng cách duy nhất là thay giác mạc.
Hình 3: mắt cận thị,hiệu chỉnh mắt và mắt sau khi đã hiệu chỉnh bằng lazer excimer.
5 Kính hiển vi quét lazer đồng tiêu để phát hiện sớm sâu răng.
Bệnh sâu răng ở một số nươc trên thế giới là phổ biến. Nguyên nhân của sâu răng là do: lớp phủ trên răng bị vi trùng, và sự nuôi dưỡng đóng vai trò quyết định. Dùng kính lazer đồng tiêu CLSM(confocal lazer scanning microscopy)
5.1 Cơ sở của phép đo
Kính hiển vi quét lazer đồng tiêu là một phương phápp xem ảnh mặt cắt lớp. Tia sáng đã được hội tụ của một lazer ion argon 448nm được dẫn qua hệ quang học của một kính hiển vi ở chế độ phản xạ thông thường, rồi theo từng dòng lên bề mặt răng. Ánh sáng xanh của lazer cũng có thể xuyên thấu vào những vùng sâu hơn của bề mặt.
Hình 4: cấu trúc răng và phẫu thuật răng
Ánh sáng đi vào lớp này phụ thuộc vào mặt phẳng tiêu đã được điều chỉnh theo cấu trúc mà chúng ta quan tâm, hoặc nó bị này phản xạ và tán xạ. Ánh sáng phản xạ từ bề mặt lớp men sẽ được lái qua một gương đặc biệt để vào đàu thu, đầu thu này sẽ đo cường độ. Đầu thu sẽ được đặt sau một tấm chắn sáng lỗ đồng tiêu có đường kính lỗ rất nhỏ, cỡ vài centimet. Chắn sáng lỗ có tác dụng chỉ cho ánh sáng từ mặt phẳng tiêu đi được tới mặt phẳng đo. Nhờ dùng hệ đo này ta có thể chụp ảnh một loạt các ảnh cắt lớp được điều khiển bằng máy tính, chúng cho phép chồng lên nhau để tạo thành một ảnh(giả) không gian ba chiều. Sau đó từ ảnh(giả) không gian ba chiều này có thể nhận biết rõ hơn cấu trúc, ta phải tạo ra một ảnh mà giới chuyên môn gọi là phép biểu diễn màu sắc sai lệch. Mỗi giá trị cường độ đã đo được sẽ là một màu sắc nhất định.
5.2 Cấu trúc của men răng lành
Men răng lành ảnh hưởng cắt lớp quang học được chụp song song với bề mặt răng cho thấy hình có dạng hình tổ ong. Bên trong hình tổ ong gồm các bó mầm tinh hình kim dài khoảng 0.2μm và được kiến tạo từ khoáng chất hydroxylapaptit(Ca2(PO4)3OH). Những khoảng thường gọi là các thanh hình khối lăng trụ này có đường kính dao động xấp xỉ 5μm và không phản xạ ánh sáng lazer.
Men răng có các tính chất của hydroxylapaptit- cực kỳ cứng, hầu như không hoà tan và rất khó tẩy xoá. Dù cho chất cơ bản rất cứng nhưng nó vẫn đủ mềm dẻo để truyền các lực khi nhai, để không làm hỏng men răng.
Tuy nhiên, khi ở trong miệng răng phải chịu các điều kiện môi trường: bề mặt bị bào mòn khi nhai, axít lactic do vi khuẩn tạo ra, các loại axít từ đồ ăn uống sẽ bào mòn nó. Nước miếng trong miệng nó có tác dụng cản trở tác dụng phân huỷ các loại axít.
5.3Những tổn thương do sâu răng
Nhìn từ kính hiển vi quét lazer đồng tiêu: nếu nhìn sâu vào trong răng, chẳng hạn ở độ sâu 30μm dưới bề mặt men ta thấy có sự thay đổi rất lớn về mặt cấu trúc so với cấu trúc lý tưởng của men lành. Mặc dù cách xép theo hình tổ ong ở các lăng trụ không còn rõ nét như trước. Ở một số vùng thậm chí hình mẫu tổ ong có vẻ như bị gián đoạn.
Chỉ có 40 đến 50 μm của bề mặt bị liên đới thì vấn đề là sự tổn thương sớm của sự dau răng. Nó thể hiện ở những chỗ nhỏ có đường kính nhỏ hơn 1μm trên bề mặt. Xuất phát từ những lỗ vô cùng nhỏ này đã cho phép các axít lactic do vi khuẩn sinh ra, nhưng con đường theo đó có thể lan ra những vùng sâu hơn. Khi đó nó đi theo nhưng con đường của men liên khối lăng trụ. Men liên khối lăng trụ, ở trạng thái mà nó được cấu tạo dễ bị axít ăn mòn hoá học hơn là các thanh hình khối lăng trụ.
Khi đã bị axít ăn mòn ở mức độ phát triển, chẳng hạn như sau ba đến bốn tuần cấu trúc ban đầu của men răng đã bị phá huỷ. Trong giai đoạn của một tổn thương sớm về sâu răng. Mặt cắt quang học thấy rõ các thay đổi quan trọng đối với bác sỹ nha khoa.
5.4 Phòng bệnh sâu răng
Không phải bất cứ một sự thay đổi nhỏ mang tính sâu răng nào cũng nhất thiết dẫn tới cái lỗ đáng sợ trong răng của chúng ta. Điều này cúng đã được các nghiên cứu gần đây cho thấy và chúng có một ý nghĩa rất lớn cho việc phòng bệnh sâu răng. Nhưng tổn thương rất lớn bên bề ngoài mặt men răng nguyên vẹn, mà chúng ta không thể thấy được, có thể phát triển theo ba hướng:
Đầu tiên là các tổn thương tiếp tục phát triển và lan rộng thành sâu răng mà không thể thấy trên bề mặt của men răng.
Thứ hai là sự hình thành các tổn thương có thể dừng lại, bệnh sâu răng tạm dừng.
Thứ ba là những tổn thương này phần nào lành trở lại được. Thật sự là giai đoạn sớm như thế của bệnh sâu răng, bản thân răng có thể tự làm lành lại được, điều mà chúng ta có thể được hỗ trợ và thúc đẩy bằng những ảnh hưởng nhất định của ngoại cảnh.
Phương pháp kính hiển vi quét lazer đồng tiêu đã góp phần đáng kể cho nhận thức về vấn đề hết sức quan trọng này. Nếu điều trị bằng dung dịch có chứa florua, cấu trúc của mem sẽ thay đổi nhưng điều trị bằng florua thì làm cho bệnh sâu răng dừng hẳn.
Phương pháp kính hiển vi quét lazer đồng tiêu đã cung cấp cho chúng ta những nhận thức hết sức quan trọng về giai đoạn đầu của bệnh sâu răng. Ở đây những thay đổi đầu tiên xuất phát từ các tổn thương siêu nhỏ mà chúng ta sẽ phát triển dưới bề mặt men răng nguyên vẹn trên phương diện quang học. Không nhất thiết là từ mỗi tổn thương như thế sẽ dẫn tới sự hình thành một lỗ sâu răng. Do vậy, nên chẳng phải định nghĩa lại khái niệm về tình trạng sức khoẻ của chất liệu cứng của răng.

Những quá trình sớm về mặt bệnh lý của bệnh sâu răng không thể nhận biết các kỹ thuật truyền thống của nha khoa, chẳng hạn như gương cầu, đầu dò hay các ảnh chụp tia X đặc biệt. Phương pháp kính hiển vi quét lazer đồng tiêu được xem là phương pháp thích hợp để phát hiện sớm bệnh. Qua đó các bác sỹ nha khoa sẽ nhận biết được những thông tin rất sớm về bệnh sâu răng đang tồn tại, và từ đó có thể tư vấn cho người bệnh của mình, xúc tiến sớm hơn vấn đề phòng bệnh.

6 KẾT LUẬN
Cha ông ta thường nói “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Chúng ta nhận thấy rằng nếu như các điều kiện kỹ thuật cho phép thì việc dùng tia lazer vào phẫu thuật cũng như chuẩn đoán bệnh sẽ có nhiều ưu điểm hơn các phương pháp truyền thống. Bởi vì chúng cho kết quả nhanh, chính xác, ít gây tổn thương cho người bệnh. Tuy nhiên, ngày nay kỹ thuật vận dụng lazer vào y học mới là bước đầu, khoa học sẽ cònn cả một chặng đường dài để nghiên cứu và đưa chúng vào thực tiễn. Vấn đề cấp bách hiện nay là các nhà khoa học cố gắng thu nhỏ các máy, chính xác hoá, chuyên môn hoá các máy lazer để ứng dụng vào y học.
Ngày nay, người ta chủ yếu là phòng bệnh. Tức là dùng tia lazer để chuẩn đoán bệnh. Các bệnh được nhận biết khi chúng mới bắt đầu vì vậy dễ chữa hơn. Từ đó bác sỹ sẽ có các tư vấn chính xác cho bệnh nhân của mình.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Đình Hậu
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)