TUONG TRAN QUANG KHAI NHA TRAN
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Yến |
Ngày 10/05/2019 |
39
Chia sẻ tài liệu: TUONG TRAN QUANG KHAI NHA TRAN thuộc Lịch sử 7
Nội dung tài liệu:
TRẦN QUANG KHẢI
(NGUYỄN HUỆ CHI)
--------------------------------------------
Quang Khải, tự Chiêu Minh, sinh vào mùa đông năm Tân Sửu (1241), là con trai thứ ba Trần Cảnh (Trần Thái Tông). Dưới triều Trần Thánh Tông, ông giữ chức Tướng quốc thái úy, tước Đại vương; được thăng chức Thượng tướng Thái sư dưới triều vua Nhân Tông. Cùng với Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải cũng là một nhân vật trọng yếu của vương triều, đã đóng góp nhiều công sức vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông (1284 - 1288), ông đã tham gia trận phản công lớn, đánh tan quân giặc ở Hàm Tử và Chương Dương, giải phóng Thăng Long. Trần Quang Khải là người học rộng, biết nhiều, văn võ song toàn, ngoài ra ông còn là một nhà ngoại giao, nhà thơ có tài. Trong số các thi sĩ - chính khách thời Trần, Trần Quang Khải có lẽ là người để lại cho người đọc một ấn tượng tươi tắn mà sâu đậm. Trước hết, tuy chỉ còn lại vẻn vẹn có 10 bài thơ thôi (Trong 10 bài thơ này thì có một bài Đề đền Bạch Mã, chỉ được chép trong Việt điện u linh tập, một bài Hạ Hồ Thành trúng Trạng nguyên, e không đúng, và một bài Đề dã thự trùng với bài Tĩnh Bang cảnh vật của Trần Tung trong Thượng Sĩ ngữ lục. Điều kiện tư liệu hiện nay chưa cho phép khẳng định dứt khoát vấn đề tác giả đích thực của các bài đó), song, thơ ông bài nào cũng mang cốt cách khoáng đạt của một thi nhân cỡ lớn. Trần Quang Khải có làm thơ xã giao thù tạc cũng là cái thù tạc không cần phải gắng gượng hay khách sáo, mà trái lại dung dị, tự nhiên, hiếm người có được: Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân quệ, Cộng xướng thù gian, tích đối sàng. (Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh) (Tức Sài Thung) (Vừa nói cười đó mà thoắt đã ngậm ngùi dứt áo, Tiếc những lúc hai giường đối diện, xướng họa cùng nhau). Và Trần Quang Khải có ngắm nhìn đồng quê trong tư cách một vị chủ nhân trang trại thì vẫn là cái nhìn đột xuất, tình tứ khác thường: Dã thự tân khai, cảnh vật tân, Phương phi đào lý, tứ thời xuân. Nhất thanh ngư địch, thanh lâu nguyệt, Kỷ phiến nông thoa, bích lũng vân. (Đề dã thự) (Trang trại mới mở, cảnh vật thật mới mẻ, Đào mận tốt tươi, xuân suốt cả bốn mùa. Một tiếng sáo trẻ chăn trâu, xanh thêm mặt trăng trên lầu, Vài tấm áo tơi nông phu, biếc hẳn đám mây dưới lũng). Sau nữa, ấn tượng tươi tắn của chúng ta đối với Trần Quang Khải - thi nhân còn ở chỗ, ta biết tác giả những vần thơ khoáng đạt này là một vị Thái sư Thượng tướng, cùng với Trần Quốc Tuấn là hai nhân vật đứng đầu hàng văn và hàng võ, đã từng góp nhiều công lao hiển hách vào công cuộc dựng nước và giữ nước đời Trần. Là con trai thứ ba vua Trần Thái Tông, em ruột Trần Thánh Tông, sinh năm 1241 và mất năm 1294, với tước Chiêu Minh vương, Trần Quang Khải đã thực sự đóng một vai trò chủ chốt trong triều chính nhà Trần suốt nhiều năm tháng, kể từ khoảng mươi năm sau cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất (1258). Ròng rã gần hai thập niên tạm gọi là hòa bình mà kỳ thực là chuẩn bị lực lượng rất khẩn trương ấy, với cương vị một ông quan đầu triều, Trần Quang Khải đã ra sức chèo chống về nội trị, ngoại giao, đưa vương triều Trần vượt qua nhiều thử thách, nhất là những cuộc đấu trí mệt nhọc, căng thẳng với đám sứ giả Nguyên Mông. Những bài thơ ông làm trong các dịp này cũng giống như những bài thơ tiếp sứ của Trần Nhân Tông và nhiều người khác, có cái mềm mỏng, nhún nhường về lời lẽ, nó là một sách lược nhất quán trong quan hệ nhiều đời giữa nước ta với các đế chế phương Bắc vốn luôn luôn tự thị vào cái "lớn", cái "khỏe" của mình: Khẩu hàm uy phúc quân bao biếm, Thân bội an nguy quốc trọng khinh. Cảm chúc tứ hiền quân phiếm ái, Hảo vi noãn dực Việt thương sinh. (Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh, Lý Chấn Văn đẳng). (Miệng nói lời oai phúc thay vua mà khen chê, Thân mang theo sự an nguy quan hệ đến việc lớn nhỏ của nước nhà. Dám xin cầu chúc bốn vị sứ giả hiền tài có lòng yêu thương rộng lớn, Ra sức che chở cho con dân nước Việt). Nhưng hết sức mềm mỏng đấy - và có thể không kém thân tình nữa kia đấy - mà vẫn giữ được hiên ngang cứng cỏi sau từng chữ
(NGUYỄN HUỆ CHI)
--------------------------------------------
Quang Khải, tự Chiêu Minh, sinh vào mùa đông năm Tân Sửu (1241), là con trai thứ ba Trần Cảnh (Trần Thái Tông). Dưới triều Trần Thánh Tông, ông giữ chức Tướng quốc thái úy, tước Đại vương; được thăng chức Thượng tướng Thái sư dưới triều vua Nhân Tông. Cùng với Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải cũng là một nhân vật trọng yếu của vương triều, đã đóng góp nhiều công sức vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông (1284 - 1288), ông đã tham gia trận phản công lớn, đánh tan quân giặc ở Hàm Tử và Chương Dương, giải phóng Thăng Long. Trần Quang Khải là người học rộng, biết nhiều, văn võ song toàn, ngoài ra ông còn là một nhà ngoại giao, nhà thơ có tài. Trong số các thi sĩ - chính khách thời Trần, Trần Quang Khải có lẽ là người để lại cho người đọc một ấn tượng tươi tắn mà sâu đậm. Trước hết, tuy chỉ còn lại vẻn vẹn có 10 bài thơ thôi (Trong 10 bài thơ này thì có một bài Đề đền Bạch Mã, chỉ được chép trong Việt điện u linh tập, một bài Hạ Hồ Thành trúng Trạng nguyên, e không đúng, và một bài Đề dã thự trùng với bài Tĩnh Bang cảnh vật của Trần Tung trong Thượng Sĩ ngữ lục. Điều kiện tư liệu hiện nay chưa cho phép khẳng định dứt khoát vấn đề tác giả đích thực của các bài đó), song, thơ ông bài nào cũng mang cốt cách khoáng đạt của một thi nhân cỡ lớn. Trần Quang Khải có làm thơ xã giao thù tạc cũng là cái thù tạc không cần phải gắng gượng hay khách sáo, mà trái lại dung dị, tự nhiên, hiếm người có được: Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân quệ, Cộng xướng thù gian, tích đối sàng. (Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh) (Tức Sài Thung) (Vừa nói cười đó mà thoắt đã ngậm ngùi dứt áo, Tiếc những lúc hai giường đối diện, xướng họa cùng nhau). Và Trần Quang Khải có ngắm nhìn đồng quê trong tư cách một vị chủ nhân trang trại thì vẫn là cái nhìn đột xuất, tình tứ khác thường: Dã thự tân khai, cảnh vật tân, Phương phi đào lý, tứ thời xuân. Nhất thanh ngư địch, thanh lâu nguyệt, Kỷ phiến nông thoa, bích lũng vân. (Đề dã thự) (Trang trại mới mở, cảnh vật thật mới mẻ, Đào mận tốt tươi, xuân suốt cả bốn mùa. Một tiếng sáo trẻ chăn trâu, xanh thêm mặt trăng trên lầu, Vài tấm áo tơi nông phu, biếc hẳn đám mây dưới lũng). Sau nữa, ấn tượng tươi tắn của chúng ta đối với Trần Quang Khải - thi nhân còn ở chỗ, ta biết tác giả những vần thơ khoáng đạt này là một vị Thái sư Thượng tướng, cùng với Trần Quốc Tuấn là hai nhân vật đứng đầu hàng văn và hàng võ, đã từng góp nhiều công lao hiển hách vào công cuộc dựng nước và giữ nước đời Trần. Là con trai thứ ba vua Trần Thái Tông, em ruột Trần Thánh Tông, sinh năm 1241 và mất năm 1294, với tước Chiêu Minh vương, Trần Quang Khải đã thực sự đóng một vai trò chủ chốt trong triều chính nhà Trần suốt nhiều năm tháng, kể từ khoảng mươi năm sau cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất (1258). Ròng rã gần hai thập niên tạm gọi là hòa bình mà kỳ thực là chuẩn bị lực lượng rất khẩn trương ấy, với cương vị một ông quan đầu triều, Trần Quang Khải đã ra sức chèo chống về nội trị, ngoại giao, đưa vương triều Trần vượt qua nhiều thử thách, nhất là những cuộc đấu trí mệt nhọc, căng thẳng với đám sứ giả Nguyên Mông. Những bài thơ ông làm trong các dịp này cũng giống như những bài thơ tiếp sứ của Trần Nhân Tông và nhiều người khác, có cái mềm mỏng, nhún nhường về lời lẽ, nó là một sách lược nhất quán trong quan hệ nhiều đời giữa nước ta với các đế chế phương Bắc vốn luôn luôn tự thị vào cái "lớn", cái "khỏe" của mình: Khẩu hàm uy phúc quân bao biếm, Thân bội an nguy quốc trọng khinh. Cảm chúc tứ hiền quân phiếm ái, Hảo vi noãn dực Việt thương sinh. (Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh, Lý Chấn Văn đẳng). (Miệng nói lời oai phúc thay vua mà khen chê, Thân mang theo sự an nguy quan hệ đến việc lớn nhỏ của nước nhà. Dám xin cầu chúc bốn vị sứ giả hiền tài có lòng yêu thương rộng lớn, Ra sức che chở cho con dân nước Việt). Nhưng hết sức mềm mỏng đấy - và có thể không kém thân tình nữa kia đấy - mà vẫn giữ được hiên ngang cứng cỏi sau từng chữ
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Yến
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)