Tuần 8. Tam đại con gà

Chia sẻ bởi Chu Ngoc Cuong | Ngày 09/05/2019 | 38

Chia sẻ tài liệu: Tuần 8. Tam đại con gà thuộc Ngữ văn 10

Nội dung tài liệu:

1. Tam đại con gà.
2. Nhưng nó phải bằng hai mày.
(Truyện cười)
DÀN BÀI CHUNG
A.Tam đại con gà.
Nội dung.
Nghệ thuật.
Ý nghĩa.
Tổng kết
B. Nhưng nó phải bằng hai mày.
- Nội dung.
- Nghệ thuật.
- Ý nghĩa
- Tổng kết.
Những nét đặc sắc của truyện cười dân gian
TÌM HIỂU CHUNG
I. Tiểu dẫn
Nội dung :
Phân loại truyện cười thành hai loại:
+ Truyện khôi hài:
Nhằm mục đích giải trí, mua vui,
ít nhiều có tính giáo dục.
+ Truyện trào phúng:
- Phê phán những kẻ thuộc giai cấp
quan lại bóc lột .
- Phê phán thói hư tật xấu
trong nội bộ nhân dân.
II. TÌM HIỂU VĂN BẢN
TAM ĐẠI CON GÀ
II. TÌM HIỂU VĂN BẢN
1/ Nội dung truyện cười :
a/ Đối tượng gây cười trong truyện:
+ Là một anh học trò dốt nhưng lại sĩ diện hão.
b/ Mâu thuẫn gây cười:
+ Đối tượng gây cười vì dốt lại còn sĩ diện hão, ngoan cố dấu dốt đến phút cuối cùng .
c/ Bản chất và ý nghĩa của cái cười:
+ Truyện phê phán một bộ phận trong nội bộ nhân dân với tật xấu : đã dốt lại dấu dốt và tự cho mình giỏi, rút cuộc, cái dốt vẫn lộ ra, hơn nữa anh ta lại mang cái dốt dạy trẻ làm ảnh hưởng đến tương lai của đất nước.
+ Truyện chỉ dừng lại ở mức độ phê phán , nên tiếng cười mang tính chất sảng khoái.
2/ Nghệ thuật gây cười
a/ Nghê thuật gây cười:
- Mâu thuẫn tạo ra tiếng cười
Thầy đồ dốt >< hay khoe khoang giấu dốt, sĩ diện hão
- Cái cười bật ra nhiều lần. Mỗi lần ta đều nhận ra tính láu cá, vụng chèo khéo chống của anh học trò dám liều lĩnh làm thầy đồ dạy trẻ.

Kê (con gà)
Lần thứ nhất
- Gặp chữ “kê” là gà thầy không biết chữ gì, bị học trò hỏi dồn, thầy cuống nói liều “dủ dỉ là con dù dì ”.
+ Trong Hán tự không có chữ “dù dì” và trong thế giới động vật cũng không có con nào là con “dù dì” => thầy dốt đến tận cùng của sự dốt. Thầy không chỉ kém về kiến thức sách vở mà còn kém hiểu biết về kiến thức thực tế.
b/ Cách thể hiện tiếng cười:
Lần thứ hai :
- Thầy sợ người ta biết thì cười, cho nên bảo học trò đọc khẽ ta cười vì sự giấu dốt rất thận trọng của thầy, cười vì thói sĩ diện hão của kẻ dốt nát.
- Thầy liều lĩnh bao nhiêu khi dạy trẻ thì lại thận trọng bấy nhiêu trong việc giấu dốt => đáng chê trách.
b/ Cách thể hiện tiếng cười:
Lần thứ ba :
- Ta cười khi thầy tìm đến thổ công
( không tìm sách, tìm người để hỏi ).
- Thổ công xuất hiện càng làm cho ý nghĩa phê phán thêm sinh động, sâu sắc. Thầy dốt thổ công cũng dốt luôn.
(Thầy xin ba đài âm dương được cả ba)  Cái dốt dạy cái dốt  thầy tin chắc nên đắc ý lắm, quát trẻ đọc thật to (dủ dỉ là con dù dì) => cái dốt được khuếch đại nhân lên bằng âm thanh.
b/ Cách thể hiện tiếng cười:
Lần thứ tư
Ta cười khi thầy bộc lộ đến tận cùng sự thảm hại của thói giấu dốt. Đó cuộc chạm trán với chủ nhà, cái dốt bị lật tẩy ( Kê là gà sao dạy các cháu là dù dì? )
- Thầy vẫn cố chống đỡ bằng cách láu cá vặt “vụng chèo khéo chống” => vẫn biết “kê là gà” nhưng thầy muốn dạy cho trẻ biết đến “Tam đại con gà” tiếng cười bật ra 1 cách bất ngờ => yếu tố bất ngờ nhất của truyện.
+ Cái cười được thể hiện qua nhiều lần :

Lần thứ nhất
Thầy không nhận ra mặt chữ, trò hỏi gấp
Nên nói liều?Dủ dỉ là con dù dì?




Lần thứ hai
Sợ sai nên thầy bảo trò đọc khẽ
(đã dốt thầy lại còn sĩ diện hão)



Lần thứ ba
Thầy không chắc nên cầu cứu thổ công
Khi được ba đài âm dương thầy cho trò
đọc to ?Dủ dỉ là con dù dì?



Lần thứ tư:
Khi chạm trán với chủ nhà,
cá dốt bị lộ tẩy


Ý nghĩa

Sau khi học xong truyện dân gian này ta thấy được điều gì ?
Sau khi học xong truyện dân gian này ta hiểu được mâu thuẫn trái tự nhiên trong cách ứng phó của nhân vật thầy đồ trong truyện.
Thấy được cái hay của nghệ thuật tự sự
“ Nhân vật tự bộc lộ” (Cái dốt không thể che đậy sớm muộn nó sẽ hiện nguyên hình)
Tiếng cười không chỉ mua vui mà phê phán thói giấu dốt của thầy đồ khi xưa. Bên cạnh đó còn nhắc nhở, cảnh tỉnh những kẻ hôm nay cũng mắc bệnh ấy.
Người “dạy học” trong truyện có thực sự là thầy đồ hay không?
Học sinh có thường dấu “dốt” hay không?
Dấu bằng cách nào?
Theo em tại sao nhiều người lại có tâm lí dấu dốt?
Bản thân em đã từng dấu “dốt” bao giờ chưa?
B. NHƯNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY
1/ Nội dung truyện cười
Nguyên nhân tiếng cười:
- Nguyên nhân tiếng cười là do mâu thuẫn của sự việc : thầy lý nổi tiếng xử kiện giỏi >< bản chất bên trong ( chuyên nhận tiền đút lót )
Biện pháp để gây cười:
- Dùng tiếng cười và cử chỉ của nhân vật để làm tiếng cười bật ra.
+ Khi bị lôi ra đánh đòn : “Cải vội xòe năm ngón tay .... Khẽ bẩm lẽ phải thuộc về con cơ mà”.
+ Cử chỉ lời nói của Cải nhắc thầy lý món tiền mà anh ta đã lót trước cho thầy lý.
+ Thầy lý cũng có hành động lời nói tương ứng “thầy xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt ” và nói “Mày phải nhưng nó lại phải bằng hai mày”
Ý nghĩa tiếng cười ở chi tiết cuối truyện.
Cử chỉ và lời nói lập lờ của thầy lý đã làm bật ra tiếng cười => cái phải đã bị cái khác lớn hơn ( tiền ) che lấp mất rồi => sự công bằng, lẽ phải không có nghĩa lý gì ở chốn công đường khi thầy lý xử kiện. Lẽ phải ở đây thuộc về kẻ nhiều tiền!!!
Hình chỉ mang tính minh họa
Ngày nay, cơ quan nào chuyên xét xử phân định đúng sai của người dân.
Trong mỗi phiên tòa thường phải có sự hiện diện của những ai?
Những nét đặc sắc của truyện cười dân gian

- Truyện cười rất ngắn gọn, kị sự dài dòng, lan man làm nhạt đi tiếng cười. Truyện phải gói kín mở nhanh mới tạo sự bất ngờ.
- Kết cấu chặt chẽ mọi chi tiết hướng tới sự gây cười. Tiếng cười rộ lên ở cuối truyện.
- Truyện ít nhân vật, nhân vật chính là đối tượng của tiếng cười.
- Ngôn ngữ giản dị nhưng rất tinh, rất sắc, nhất là ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật ở cuối truyện.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Chu Ngoc Cuong
Dung lượng: | Lượt tài: 4
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)