Tuần 8. Ôn tập văn học trung đại Việt Nam
Chia sẻ bởi Nguyễn Đại Hùng |
Ngày 10/05/2019 |
39
Chia sẻ tài liệu: Tuần 8. Ôn tập văn học trung đại Việt Nam thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
ÔN TẬP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
I/ NỘI DUNG
1/ Câu 1.
- Bên cạnh những nội dung yêu nước đã có trong các giai đoạn văn học trước, ở hai giai đoạn văn học này ( từ TK XVIII đến nửa đầu TK XIX và nửa cuối TK XIX ) xuất hiện những nội dung mới: ý thức về vai trò của hiền tài đối với đất nước (Chiếu cầu hiền ), tư tưởng canh tân đất nước (Xin lập khoa luật ),…Chủ nghĩa yêu nước trong văn học nửa cuối tk XIX mang âm hưởng bi tráng qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
2/ Câu 2.
- Có thể nói chủ nghĩa nhân đạo trong văn học giai đoạn từ TK XVIII đến nửa đầu TK XIX xuất hiện thành trào lưu, bởi lẽ: những tác phẩm mang nội dung nhân đạo xuất hiện nhiều, liên tiếp với nhiều tác phẩm có giá trị lớn như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…
Những nội dung nhân đạo chủ yếu trong giai đoạn này: thương cảm trứơc bi kịch và đồng cảm với khát vọng của con người; khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm; lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người;
Cảm hứng nhân đạo trong văn học giai đoạn này có những biểu hiện mới so với những giai đoạn trước: Hướng vào quyền sống của con người, nhất là con người trần thế (Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương); ý thức về cá nhân đậm nét hơn ( quyền sống cá nhân, hạnh phúc cá nhân, tài năng cá nhân…qua Đọc Tiểu Thanh kí, Tự tình II, Bài ca ngất ngưởng,…
3/ Câu 3.
- Thượng kinh kí sự ghi lại việc tác giả lên kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chú Trịnh Sâm. Đoạn trích là bức tranh chân thực về cuộc sống nơi phủ chúa, được khắc hoạ ở hai phương diện: cuộc sống thâm nghiêm giàu sang, xa hoa và cuộc sống thiếu sinh khí.
- Trịnh phủ là nơi thâm nghiêm, đầy uy quyền. Uy quyền nơi phủ chúa thể hiện ở những tiếng quát tháo, truyền lệnh, những tiếng dạ ran, ở những con người oai vệ và những con người khúm núm, sợ sệt. Phủ chúa là một thế giới riêng biệt. Người vào phải qua rất nhiều cửa gác, mọi việc đều phải có quan truyền lệnh, chỉ dẫn. Thầy thuốc vào khám bệnh phải chờ, nín thở, khúm núm lạy tạ.
- Phủ chúa là nơi cực kì giàu sang và hết sức xa hoa. Giàu sang từ nơi ở đến tiện nghi sinh hoạt. Xa hoa từ vật dụng đến đồ ăn, thức uống…
- Phủ chúa là nơi cực kì giàu sang và hết sức xa hoa. Giàu sang từ nơi ở đến tiện nghi sinh hoạt. Xa hoa từ vật dụng đến đồ ăn, thức uống…
- Cuộc sống nơi Trịnh phủ âm u, thiếu sinh khí. Sự thâm nghiêm kiểu mê cung càng làm tăng ám khí nơi phủ chúa. Ám khí bao trùm không gian, cảnh vật. Ám khí ngấm sâu vào hình hài, thể tạng con người. Vị chúa nhỏ Trịnh Cán cái gì cũng “quá” trong sự xa hoa nhưng lại thiếu một điều căn bản là sự sống, sức sống.
4/ Câu 4
- Những giá trị về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu
+ Về nội dung: Đề cao đạo lí nhân nghĩa (Lục Vân Tiên), nội dung yêu nước qua “Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…
+ Về nghệ thuật: tính chất đạo đức - trữ tình; màu sắc Nam Bộ
- Về văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
+ Trước Nguyễn Đình Chiểu, văn học dân tộc chưa có một hình tượng hoàn chỉnh về người anh hùng nông dân – nghĩa sĩ.
+ Hình tượng người anh hùng nông dân – nghĩa sĩ mang vẻ đẹp bi tráng bởi vì ở hình tượng này có sự kết hợp gữa yếu tố bi (đau thương) và yếu tố tráng ( hào hùng, tráng lệ ). Yếu tố bi được gợi lên qua cuộc sống lam lũ, vất vả, nỗi đau thương mất mát của người nghĩa sĩ và tiếng khóc xót đau của người còn sống. yếu tố tráng qua lòng căm thù giặc, lòng yêu nước, hành động quả cảm, anh hùng của nghĩa quân, sự ca ngợi công đức những người đã hi sinh về quê hương đất nước….
II/ PHƯƠNG PHÁP
1/ Tư duy nghệ thuật:
- Thể hiện qua tính quy phạm và sự phá vỡ tính quy phạm.
- “Quy”: thước, “phạm”: khuôn. Tính quy phạm của văn học là những giới hạn trong sáng tác nghệ thuật mà người cầm bút sáng tác phải tuân theo khuôn thước, kiểu mẫu có sẵn, đã thành công thức. Ví dụ viết về thiên nhiên thì không thể thiếu hình ảnh “sơn thuỷ”, “phong hoa tuyết nguyệt”, “nước thú non kì”, về lịch sử thường là “địa linh nhân kiệt”, “hào khí non sông”, về thứ dân thường là “ngư kiều canh mục”..
- Biểu hiện của tính quy phạm: quan điểm nghệ thuật (coi trọng mục đích giáo huấn), về tư duy nghệ thuật, về thi liệu, văn liệu (điển tích, điển cố), về thể loại ( các thể loại có kết cấu định hình và tính ổn định cao. Đó là các thể văn hành chính, chức năng như bia, chiếu, biểu, tấu, sớ,…còn thơ nghệ thuật thường là tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn bát cú.
- Sự phá vỡ tính quy phạm: là sự sáng tạo vượt ra khỏi khuôn mẫu thơ ca.
2/ Quan niệm thẩm mĩ:
- Hướng về những cái đẹp trong quá khứ, thiên về cái cao cả, tao nhã, ưa sử dụng những điển cố, điển tích, những thi liệu Hán học.
( vd các điển tích, điển cố trong các bài: Lục Vân Tiên ( Kiệt, Trụ, U lệ,…), Bài ca ngắn..., Khóc Dương Khuê,…)
3/ Bút pháp nghệ thuật:
- thiên về ước lệ, tượng trưng.
( Vd Bãi cát là hình ảnh tượng trưng cho con đường danh lợi, nhọc nhằn, gian khổ. Những người tất tả đi trên bãi cát là những người ham công danh, sẵn sàng vì công danh mà chạy ngược, xuôi,…)
I/ NỘI DUNG
1/ Câu 1.
- Bên cạnh những nội dung yêu nước đã có trong các giai đoạn văn học trước, ở hai giai đoạn văn học này ( từ TK XVIII đến nửa đầu TK XIX và nửa cuối TK XIX ) xuất hiện những nội dung mới: ý thức về vai trò của hiền tài đối với đất nước (Chiếu cầu hiền ), tư tưởng canh tân đất nước (Xin lập khoa luật ),…Chủ nghĩa yêu nước trong văn học nửa cuối tk XIX mang âm hưởng bi tráng qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
2/ Câu 2.
- Có thể nói chủ nghĩa nhân đạo trong văn học giai đoạn từ TK XVIII đến nửa đầu TK XIX xuất hiện thành trào lưu, bởi lẽ: những tác phẩm mang nội dung nhân đạo xuất hiện nhiều, liên tiếp với nhiều tác phẩm có giá trị lớn như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…
Những nội dung nhân đạo chủ yếu trong giai đoạn này: thương cảm trứơc bi kịch và đồng cảm với khát vọng của con người; khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm; lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người;
Cảm hứng nhân đạo trong văn học giai đoạn này có những biểu hiện mới so với những giai đoạn trước: Hướng vào quyền sống của con người, nhất là con người trần thế (Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương); ý thức về cá nhân đậm nét hơn ( quyền sống cá nhân, hạnh phúc cá nhân, tài năng cá nhân…qua Đọc Tiểu Thanh kí, Tự tình II, Bài ca ngất ngưởng,…
3/ Câu 3.
- Thượng kinh kí sự ghi lại việc tác giả lên kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chú Trịnh Sâm. Đoạn trích là bức tranh chân thực về cuộc sống nơi phủ chúa, được khắc hoạ ở hai phương diện: cuộc sống thâm nghiêm giàu sang, xa hoa và cuộc sống thiếu sinh khí.
- Trịnh phủ là nơi thâm nghiêm, đầy uy quyền. Uy quyền nơi phủ chúa thể hiện ở những tiếng quát tháo, truyền lệnh, những tiếng dạ ran, ở những con người oai vệ và những con người khúm núm, sợ sệt. Phủ chúa là một thế giới riêng biệt. Người vào phải qua rất nhiều cửa gác, mọi việc đều phải có quan truyền lệnh, chỉ dẫn. Thầy thuốc vào khám bệnh phải chờ, nín thở, khúm núm lạy tạ.
- Phủ chúa là nơi cực kì giàu sang và hết sức xa hoa. Giàu sang từ nơi ở đến tiện nghi sinh hoạt. Xa hoa từ vật dụng đến đồ ăn, thức uống…
- Phủ chúa là nơi cực kì giàu sang và hết sức xa hoa. Giàu sang từ nơi ở đến tiện nghi sinh hoạt. Xa hoa từ vật dụng đến đồ ăn, thức uống…
- Cuộc sống nơi Trịnh phủ âm u, thiếu sinh khí. Sự thâm nghiêm kiểu mê cung càng làm tăng ám khí nơi phủ chúa. Ám khí bao trùm không gian, cảnh vật. Ám khí ngấm sâu vào hình hài, thể tạng con người. Vị chúa nhỏ Trịnh Cán cái gì cũng “quá” trong sự xa hoa nhưng lại thiếu một điều căn bản là sự sống, sức sống.
4/ Câu 4
- Những giá trị về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu
+ Về nội dung: Đề cao đạo lí nhân nghĩa (Lục Vân Tiên), nội dung yêu nước qua “Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…
+ Về nghệ thuật: tính chất đạo đức - trữ tình; màu sắc Nam Bộ
- Về văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
+ Trước Nguyễn Đình Chiểu, văn học dân tộc chưa có một hình tượng hoàn chỉnh về người anh hùng nông dân – nghĩa sĩ.
+ Hình tượng người anh hùng nông dân – nghĩa sĩ mang vẻ đẹp bi tráng bởi vì ở hình tượng này có sự kết hợp gữa yếu tố bi (đau thương) và yếu tố tráng ( hào hùng, tráng lệ ). Yếu tố bi được gợi lên qua cuộc sống lam lũ, vất vả, nỗi đau thương mất mát của người nghĩa sĩ và tiếng khóc xót đau của người còn sống. yếu tố tráng qua lòng căm thù giặc, lòng yêu nước, hành động quả cảm, anh hùng của nghĩa quân, sự ca ngợi công đức những người đã hi sinh về quê hương đất nước….
II/ PHƯƠNG PHÁP
1/ Tư duy nghệ thuật:
- Thể hiện qua tính quy phạm và sự phá vỡ tính quy phạm.
- “Quy”: thước, “phạm”: khuôn. Tính quy phạm của văn học là những giới hạn trong sáng tác nghệ thuật mà người cầm bút sáng tác phải tuân theo khuôn thước, kiểu mẫu có sẵn, đã thành công thức. Ví dụ viết về thiên nhiên thì không thể thiếu hình ảnh “sơn thuỷ”, “phong hoa tuyết nguyệt”, “nước thú non kì”, về lịch sử thường là “địa linh nhân kiệt”, “hào khí non sông”, về thứ dân thường là “ngư kiều canh mục”..
- Biểu hiện của tính quy phạm: quan điểm nghệ thuật (coi trọng mục đích giáo huấn), về tư duy nghệ thuật, về thi liệu, văn liệu (điển tích, điển cố), về thể loại ( các thể loại có kết cấu định hình và tính ổn định cao. Đó là các thể văn hành chính, chức năng như bia, chiếu, biểu, tấu, sớ,…còn thơ nghệ thuật thường là tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn bát cú.
- Sự phá vỡ tính quy phạm: là sự sáng tạo vượt ra khỏi khuôn mẫu thơ ca.
2/ Quan niệm thẩm mĩ:
- Hướng về những cái đẹp trong quá khứ, thiên về cái cao cả, tao nhã, ưa sử dụng những điển cố, điển tích, những thi liệu Hán học.
( vd các điển tích, điển cố trong các bài: Lục Vân Tiên ( Kiệt, Trụ, U lệ,…), Bài ca ngắn..., Khóc Dương Khuê,…)
3/ Bút pháp nghệ thuật:
- thiên về ước lệ, tượng trưng.
( Vd Bãi cát là hình ảnh tượng trưng cho con đường danh lợi, nhọc nhằn, gian khổ. Những người tất tả đi trên bãi cát là những người ham công danh, sẵn sàng vì công danh mà chạy ngược, xuôi,…)
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Đại Hùng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)