Tuần 4. Bài ca ngất ngưởng
Chia sẻ bởi Nguyễn Bảo |
Ngày 10/05/2019 |
24
Chia sẻ tài liệu: Tuần 4. Bài ca ngất ngưởng thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Giới thiệu - hoàn cảnh sáng tác
Được viết năm 1848 (lúc Nguyễn Công Trứ đã cáo quan)
Giới thiệu – thể thơ
Ca trù (hát nói) – một lối thơ khá tự do so với thơ Đường, có kết hợp thể thơ song thất lục bát và lối hát chèo.
Giới thiệu – thể thơ – bố cục
Bố cục thường có những câu lục bát ở đầu hoặc cuối bài (câu mưỡu) để nói bao quát ý toàn bài
Một bài đầy đủ thường có 11 câu (không kể những câu lục bát)
Chia làm 3 khổ (trổ)
Khổ đầu, giữa đều bốn câu
Khổ cuối (khổ xếp) có ba câu
Một bài biến cách số khổ giữa có thể tăng hay giảm
Giới thiệu – thể thơ - ngôn ngử
Phần cố định bắt buộc về số tiếng: khổ giữa (ngũ ngôn hoặc thất ngôn); câu mưỡu (lục bát); câu cuối (sáu tiếng)
Phần tự do: các câu còn lại, phổ biếng là bảy, tám tiếng
Có thể xen câu đối hoặc câu thơ chữ Hán.
Giới thiệu – thể thơ – vần nhịp
Câu đầu vần chân, thanh trắc
Hai câu tiếp theo vần chân, thanh bằng
Hai câu tiếp nữa vần chân, thanh trắc
Cứ thế luân phiên đắp đối từng cặp cho đến hết.
Thể hát nói có sự hài hòa giữa phầm ngâm và phần đối.
Giới thiệu – thể thơ
Do những đặc điểm trên, hát nói rất phù hợp với việc thể hiện những tư tưởng, tình cảm tự do, phóng túng.
Giới thiệu – kết cấu
Dựa theo hệ tư tưởng tác giả:
Tài năng, danh vị xã hội (6 câu đầu)
Phong cách sống khác đời (12 câu kế)
Khẳng định mình (câu kết)
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ
Biểu hiện tập trung ở từ “ngất ngưởng”
Xuất hiện bốn lần cùng với tựa đề
Nguyễn Công Trứ thể hiện về mình qua thái độ sống, tư thế. Một con người tinh thần vươn lên thế tục, khác đời, bất chấp đời. Đó là một kiểu người thách thức, đối lập xung quanh, ý thức được tài năng, bản lĩnh, phẩm chất của mình.
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Câu thơ chữ Hán bày tỏ quan niệm “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”
Cũng là một cách Nguyễn Công Trứ khẵng định bản lĩnh, tài năng của mình.
Ông Hí Văn tài bộ đã vào lồng
Nguyễn Công Trứ coi việc làm quan như một trói buộc, giam hãm vào lồng. Điều này nói lên tính cách của ông.
Ông coi việc làm quan là mất tự do vậy mà vẫn ra làm quan : Vì ông coi việc làm quan là một điều kiện, một phương tiện để thể hiện hoài bão vì dân vì nước và tài năng của mình. điều quan trọng là trong một môi trường có nhiều trói buộc, ông vẫn thực hiện được lí tưởng xã hội của mình và vẫn giữ được bản lĩnh, cá tính.
Tài bộ >< vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng .
Lúc bình Tây, cờ đại tướng ,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Sự ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi đang làm quan
Ngất ngưởng khi khẵng định tài năng hơn đời
Ngất ngưởng khi khẵng định chức vị cao sang hơn đời, công lao hơn đời
Lời kể thật sang, thật hồ hởi cũng là một sự ngất ngưởng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng .
Lúc bình Tây, cờ đại tướng ,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
-Nghệ thuật liệt kê, sử dụng điệp từ kết hợp âm điệu nhịp nhàng thể hiện một phong thái cứng cõi, đỉnh đạc.
Cách dùng nghệ thuật liệt kê và phép điệp …có tác dụng khoe tài, vừa nhấn mạnh các chức danh mà thơ đã trải qua.
Sử dụng nhiều tứ Hán Việt mang màu sắc trang trọng.
Đoạn thơ là niềm tự hào của tác giả về ba?n thân, với một tài năng phi thường và một ý chí mạnh mẽ.
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưỡng trong lối sống khác đời:
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Khi có phận sự thì xuôi ngược hết mình, còn khi đã về trí sĩ, “ngất ngưởng” vui sống bất chấp ai cười . Trả áo mũ cho triều đình, ông về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng đeo đạc ngựa, đó là một sự “ngất ngưởng”, rất khác người.
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưỡng trong sở thích khác đời
khi lên chùa vẫn Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Khiến cho Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp : “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”,
ông đã mang theo “một đôi dì” (một hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưởng ở nhân cách vượt ra ngoài vòng cương tỏa, vượt lên thói tục. Ông coi rẻ sự được mất, sự khen chê tầm thường.
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưởng ở nhân cách vượt ra ngoài vòng cương tỏa, vượt lên thói tục:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục
Tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung trong đạo “vua tôi” chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc.
Con người sống vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến mà vẫn trước sau trọn vẹn đạo quân thần.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Nguyễn Công Trứ là con người sống vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến mà vẫn trước sau trọn vẹn đạo quân thần.
Bài thơ kết thúc bằng một câu khẳng định tư thế hiên ngang, trong phong cách khác đời, hoàn toàn đối lập với tập đoàn phong khiến đương thời.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Xây dựng hình tượng phần nào có ý vị trào phúng nhưng không che khuất được phẩm chất một nhà nho chân chính “được mất dương dương”
Liệt kê cách sống thanh nhã, thoát vòng danh lợi
Trong hoàn cảnh nào, Nguyễn Công Trứ cũng xác định đạo nghĩa của chính mình “nghĩa vua tôi”
Nghệ thuật toàn bài
Sử dụng thể loại ca trù (hát nói)
=> bộc lộ lối sống ngất ngưởng của mình, rất hợp lí trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức tác phẩm. Một lối sống tự do phóng khoáng đã tìm đến một thể loại có nhiều phá cách, tự do.
Nghệ thuật toàn bài
Đại từ xưng hô có tính khẩu ngữ được sử dụng nhiều và đa dạng:
Ông (3 lần)
Tay (2 lần): tay ngất ngưởng, tay kiếm cung
=> Ngôn ngử có tính chất điệu nói, đồng thời làm nổi bật sự ý thức về cá nhân có phần cao ngạo.
Nghệ thuật toàn bài
Cách nói giản dị, tự nhiên như ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày: đã vào lồng, kìa núi nọ, đủng đỉnh một đôi dì, bụt cũng nực cười
Bên cạnh những câu toàn chữ Hán: Vũ trụ nội mạc phi phận sự - Đô môn giải tổ chi niên
=> Làm nỗi bật tính cách “ông ngất ngưởng”
Tổng kết
Thể hiện một hình tượng nghệ thuật mang khuynh hướng khát vọng tự do. Bài thơ bộc lộ thái độ khinh đời ngạo nghễ của Nguyễn Công Trứ- một nhà thơ có ý thức về tài năng, phẩm chất và giá trị bản thân
Nhận định về Nguyễn Công Trứ: xem thường danh lợi, có bản lĩnh, tài năng và phẩm chất cao đẹp.
Nguyễn Công Trứ
Giới thiệu - hoàn cảnh sáng tác
Được viết năm 1848 (lúc Nguyễn Công Trứ đã cáo quan)
Giới thiệu – thể thơ
Ca trù (hát nói) – một lối thơ khá tự do so với thơ Đường, có kết hợp thể thơ song thất lục bát và lối hát chèo.
Giới thiệu – thể thơ – bố cục
Bố cục thường có những câu lục bát ở đầu hoặc cuối bài (câu mưỡu) để nói bao quát ý toàn bài
Một bài đầy đủ thường có 11 câu (không kể những câu lục bát)
Chia làm 3 khổ (trổ)
Khổ đầu, giữa đều bốn câu
Khổ cuối (khổ xếp) có ba câu
Một bài biến cách số khổ giữa có thể tăng hay giảm
Giới thiệu – thể thơ - ngôn ngử
Phần cố định bắt buộc về số tiếng: khổ giữa (ngũ ngôn hoặc thất ngôn); câu mưỡu (lục bát); câu cuối (sáu tiếng)
Phần tự do: các câu còn lại, phổ biếng là bảy, tám tiếng
Có thể xen câu đối hoặc câu thơ chữ Hán.
Giới thiệu – thể thơ – vần nhịp
Câu đầu vần chân, thanh trắc
Hai câu tiếp theo vần chân, thanh bằng
Hai câu tiếp nữa vần chân, thanh trắc
Cứ thế luân phiên đắp đối từng cặp cho đến hết.
Thể hát nói có sự hài hòa giữa phầm ngâm và phần đối.
Giới thiệu – thể thơ
Do những đặc điểm trên, hát nói rất phù hợp với việc thể hiện những tư tưởng, tình cảm tự do, phóng túng.
Giới thiệu – kết cấu
Dựa theo hệ tư tưởng tác giả:
Tài năng, danh vị xã hội (6 câu đầu)
Phong cách sống khác đời (12 câu kế)
Khẳng định mình (câu kết)
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ
Biểu hiện tập trung ở từ “ngất ngưởng”
Xuất hiện bốn lần cùng với tựa đề
Nguyễn Công Trứ thể hiện về mình qua thái độ sống, tư thế. Một con người tinh thần vươn lên thế tục, khác đời, bất chấp đời. Đó là một kiểu người thách thức, đối lập xung quanh, ý thức được tài năng, bản lĩnh, phẩm chất của mình.
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Câu thơ chữ Hán bày tỏ quan niệm “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”
Cũng là một cách Nguyễn Công Trứ khẵng định bản lĩnh, tài năng của mình.
Ông Hí Văn tài bộ đã vào lồng
Nguyễn Công Trứ coi việc làm quan như một trói buộc, giam hãm vào lồng. Điều này nói lên tính cách của ông.
Ông coi việc làm quan là mất tự do vậy mà vẫn ra làm quan : Vì ông coi việc làm quan là một điều kiện, một phương tiện để thể hiện hoài bão vì dân vì nước và tài năng của mình. điều quan trọng là trong một môi trường có nhiều trói buộc, ông vẫn thực hiện được lí tưởng xã hội của mình và vẫn giữ được bản lĩnh, cá tính.
Tài bộ >< vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng .
Lúc bình Tây, cờ đại tướng ,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Sự ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi đang làm quan
Ngất ngưởng khi khẵng định tài năng hơn đời
Ngất ngưởng khi khẵng định chức vị cao sang hơn đời, công lao hơn đời
Lời kể thật sang, thật hồ hởi cũng là một sự ngất ngưởng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng .
Lúc bình Tây, cờ đại tướng ,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
-Nghệ thuật liệt kê, sử dụng điệp từ kết hợp âm điệu nhịp nhàng thể hiện một phong thái cứng cõi, đỉnh đạc.
Cách dùng nghệ thuật liệt kê và phép điệp …có tác dụng khoe tài, vừa nhấn mạnh các chức danh mà thơ đã trải qua.
Sử dụng nhiều tứ Hán Việt mang màu sắc trang trọng.
Đoạn thơ là niềm tự hào của tác giả về ba?n thân, với một tài năng phi thường và một ý chí mạnh mẽ.
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưỡng trong lối sống khác đời:
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Khi có phận sự thì xuôi ngược hết mình, còn khi đã về trí sĩ, “ngất ngưởng” vui sống bất chấp ai cười . Trả áo mũ cho triều đình, ông về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng đeo đạc ngựa, đó là một sự “ngất ngưởng”, rất khác người.
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưỡng trong sở thích khác đời
khi lên chùa vẫn Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Khiến cho Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp : “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”,
ông đã mang theo “một đôi dì” (một hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưởng ở nhân cách vượt ra ngoài vòng cương tỏa, vượt lên thói tục. Ông coi rẻ sự được mất, sự khen chê tầm thường.
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Sự ngất ngưởng khi về nghỉ hưu
Ngất ngưởng ở nhân cách vượt ra ngoài vòng cương tỏa, vượt lên thói tục:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục
Tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung trong đạo “vua tôi” chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc.
Con người sống vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến mà vẫn trước sau trọn vẹn đạo quân thần.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Nguyễn Công Trứ là con người sống vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến mà vẫn trước sau trọn vẹn đạo quân thần.
Bài thơ kết thúc bằng một câu khẳng định tư thế hiên ngang, trong phong cách khác đời, hoàn toàn đối lập với tập đoàn phong khiến đương thời.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Xây dựng hình tượng phần nào có ý vị trào phúng nhưng không che khuất được phẩm chất một nhà nho chân chính “được mất dương dương”
Liệt kê cách sống thanh nhã, thoát vòng danh lợi
Trong hoàn cảnh nào, Nguyễn Công Trứ cũng xác định đạo nghĩa của chính mình “nghĩa vua tôi”
Nghệ thuật toàn bài
Sử dụng thể loại ca trù (hát nói)
=> bộc lộ lối sống ngất ngưởng của mình, rất hợp lí trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức tác phẩm. Một lối sống tự do phóng khoáng đã tìm đến một thể loại có nhiều phá cách, tự do.
Nghệ thuật toàn bài
Đại từ xưng hô có tính khẩu ngữ được sử dụng nhiều và đa dạng:
Ông (3 lần)
Tay (2 lần): tay ngất ngưởng, tay kiếm cung
=> Ngôn ngử có tính chất điệu nói, đồng thời làm nổi bật sự ý thức về cá nhân có phần cao ngạo.
Nghệ thuật toàn bài
Cách nói giản dị, tự nhiên như ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày: đã vào lồng, kìa núi nọ, đủng đỉnh một đôi dì, bụt cũng nực cười
Bên cạnh những câu toàn chữ Hán: Vũ trụ nội mạc phi phận sự - Đô môn giải tổ chi niên
=> Làm nỗi bật tính cách “ông ngất ngưởng”
Tổng kết
Thể hiện một hình tượng nghệ thuật mang khuynh hướng khát vọng tự do. Bài thơ bộc lộ thái độ khinh đời ngạo nghễ của Nguyễn Công Trứ- một nhà thơ có ý thức về tài năng, phẩm chất và giá trị bản thân
Nhận định về Nguyễn Công Trứ: xem thường danh lợi, có bản lĩnh, tài năng và phẩm chất cao đẹp.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Bảo
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)