Tuần 3. Thương vợ.
Chia sẻ bởi Hanh Nguyen |
Ngày 10/05/2019 |
77
Chia sẻ tài liệu: Tuần 3. Thương vợ. thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
Thương vợ
TÚ XƯƠNG
LƯƠNG QUANG NHẬT MINH
LỚP : 11A5
THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Giới thiệu
Thương vợ
Tác giả
Cuộc đời
Xuất xứ của bài thơ
Các nhà thơ nói về Vợ
Tú Xương nói về Vợ
Hình ảnh con cò
Nuôi chồng, nuôi con
Giới thiệu (cont.)
Lặn lội thân cò
Một duyên hai nợ
Tự trách
Nhận định
Ý nghĩa
Lời kết
Tài liệu tham khảo
Nghệ thuật thơ văn Trần Tế Xương
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom sông ,
Nuôi đủ năm con với một chồng .
Lặn lội thân cò khi quãng vắng ,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông .
Một duyên hai nợ âu đành phận ,
Năm nắng mười mưa dám quản công .
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc ,
Có chồng hờ hững cũng như không .
Tác giả
Tú Xương là một nhà nho, sinh không gặp thời, sống giữa cảnh Nho học suy tàn đang chuyển sang Tây học.
Ông là người có tài, học hành lỗi lạc, chữ tốt văn hay, nhưng trí ngang tàng, không thể ép mình vào quy chế cổ hủ bó buộc của khoa trường cũ rích .
Cuộc đời
Con đường khoa cử lận đận: 21 tuổi đỗ tú tài, thi cử nhân 8 lần cứ trượt rồi lại trượt, chỉ vì:
Rõ thực Nôm hay mà chữ dốt
Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui
Từ những bế tắc của tình cảnh ông trở thành nhà thơ trào phúng , cười cợt thói đời , phê phán con người và châm biếm với chính bản thân
Xuất xứ của bài thơ
Không rõ bài thơ đã sáng tác năm nào , chỉ biết qua nội dung là bà Tú đã " có 5 con " như vậy có thể tác giả đã viết ở khoảng trên dưới 30 tuổi.
Bài thơ nằm trong mảng thơ lấy bản thân mình hoặc vợ con ra làm đề tài tự trào,giọng điệu cười cợt nhưng có khi cười ra nước mắt.
Các nhà thơ nói về Vợ
Thường nói về vợ khi vợ đã qua đời.
Một số nhà thơ nói về vợ thường ca ngợi đức thờ chồng của các bà vợ theo quan điểm phu phụ của Nho giáo :
Tú Xương nói về Vợ
Tảo tần buôn bán để nuôi chồng, nuôi con.
Vì chồng vì con , không ngại đường xa, khổ nhọc.
Nhẫn nhục,cam chịu, nặng gánh lo .
Là con người sống tròn bổn phận, lấy sự hi sinh làm hạnh phúc.
Hình tượng người vợ lam lũ mà thục hiền, bình dị mà cao quý.
Hình ảnh con cò
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
Quanh năm buôn bán ở mom sông .
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Con cò trong ca dao và hình ảnh bà Tú giống nhau như 2 chị em: thân cò , mom sông,
Sự tần tảo , lòng vị tha của người vợ .
Nuôi chồng, nuôi con
Quanh năm : hết năm này đến năm khác, nỗi vất vả không ngơi ngày nào - mom sông làm cho nỗi vất vả thêm thế cheo leo, không vững vàng.
Nho giáo dành cho phụ nữ một công thức nhân sinh rất đơn giản: thờ chồng nuôi con thờ chồng bao hàm cả nuôi chồng ( cơm, rượu, bộ cánh, tiền trà rượu với bạn bè.) Nuôi đủ ( nuôi và cung phụng ) .
Tú Xương thấu hiểu và đánh giá đúng công lao của vợ thương vợ.
Ông chồng từng " vuốt râu", " quắc mắt" , " huênh hoang" : " Tiền bạc phó cho con mụ kiếm, ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi " lại tự hạ mình xuống ngang hàng với những đứa con , lại tự trách mình vô tài , bất lực trước nỗi vất vả của vợ rất thương vợ.
Lặn lội thân cò
Hình ảnh con cò gầy lêu khêu, lò dò đi kiếm ăn trên đồng
Người vợ lao động tảo tần, lúi húi 1 mình kiếm sống, lặn lội sớm khuya để nuôi chồng nuôi con
Quãng vắng : sự lẻ loi, đơn độc, nhiều hiểm nguy bất trắc, thiếu sự chở che, chia sẻ
Eo sèo, đò đông : sự mưu sinh khắc nghiệt, phức tạp
Người chồng thấy , hiểu nhưng không thể cùng chia sẻ nỗi vất vả , vẫn phải dựa vào sự tảo tần nhọc nhằn của vợ , vẫn giữ nếp phong lưu của mình : tự thấy mình có gì nhẫn tâm với vợ
Một duyên hai nợ
Những số đếm trong bài thơ : một duyên , hai nợ , năm nắng , mười mưa . bài thơ có ý nghĩa tính công?
Vì ông thương vợ, tính công cho vợ
Thương vợ đã cam lòng với số phận, ông tự trách mình đã là nỗi khổ của vợ, chính mình là của nợ của vợ
Tự trách
Au đành phận : không phải là cái tắc lưỡi hời hợt, không là tiếng thở dài cay đắng mà là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng với gia cảnh
Dám quản công : không than thân, không phiền lòng phẫn chí mà lặng lẽ ráng sức lo toan.
Tô đậm chân dung vợ , nhắc đến vợ với những nết tốt ẩn đàng sau đó là nỗi đắng xót của người quân tử và hàm chứa lòng tri ân
Càng thương vợ càng giận đời, giận mình, bật thành câu chửi " Cha mẹ thói đời."
Đỉnh điểm của lòng khổ tâm
Nhận định
Tú Xương đã chỉ ra nguyên nhân gây khổ cho vợ :
+ Đời bạc đã đày ải vợ hiền
+ Đời bạc đã biến mình thành chồng bạc: nam tử tài hoa thành người vô tích sự, phu quân phong nhã thành người hờ hững, nhẫn tâm
+ Thói đời đen bạc đã biến những giá trị thành vô giá trị
Tình thương đã thành lòng căm phẫn, lên án gay gắt cuộc đời đồng thời xỉ vả thậm tệ bản thân
Tình thương vợ sâu xa, thành thật
Ý nghĩa
Bài thơ là lời cảm khái tự trào, lấy cảnh gia đình riêng làm phạm vi nhưng đã mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Qua con người cụ thể đã khái quát được hình ảnh của người phụ nữ thời xưa : thương chồng thương con, một đời tần tảo, lo cho chồng con, yên lặng hi sinh, cam chịu số phận
Phản ứng của Tú Xương là lời chửi đổng vào thói đời,cái nếp sống cho phép người đàn ông sống trên lưng vợ mình một cách vô cùng bất công, phi nhân đạo
Lời kết
Sự công khai tự xỉ vả mình của Tú Xương : là thứ ăn hại , vô tình, vô lo, nhẫn tâm , bạc bẽo , có cũng như không.là ông đã đả kích vào kỉ cương phu phụ trịnh trọng và cứng rắn của ngàn xưa, đã thấy được và đã hổ thẹn với cái quan hệ phong kiến bất công vô nhân đạo
Thể hiện phong cách rất riêng của Tú Xương : nói sát bờ, sát gốc, tận cuống tận đầu, ráo riết , mãnh liệt, nghiêm trang nhưng hóm hỉnh, thâm sâu
Tài liệu tham khảo
TR?N T? XUONG (1871-1907)
Tên thật là Trần Duy Uyên, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích , đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương . Ong sinh ngày 10/8/1871 tại làng Vị Xuyên , huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định , mất ngày 20/1/1907 tại làng Địa Tứ cùng huyện.Ong cưới vợ rất sớm ( bà tên Phạm Thị Mẫn ) là một cô gái quê "con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợ , tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ " trở thành bà Tú tần tảo buôn bán , nuôi chồng, nuôi con.Gia cảnh , việc nhà Tú Xương trông cậy vào một tay bà Tú
Cuộc đời Tú Xương lận đận thi cử . Việc hỏng thi và cảnh nghèo là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xương
Nghệ thuật thơ văn Trần Tế Xương
Thơ trào phúng đa dạng , phong phú :
Các bài thơ vừa có hiện thực , vừa trào phúng, bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật , ông đã sử dụng tiếng cười làm vũ khí . Cười là cười phá , chửi là chửi độc , chua chát đến ứa mật, ứa máu.
Có những bài tự trào tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ ỡm ờ hoặc những từ thông tục. Tứ thơ thường độc đáo ,đột ngột,táo bạo gây sự chú ý vào chủ đề:
Hàn lâm tu sọan kém gì ai
Đủ cả xoong nồi, cả cóng chai
( Đưa ông Hàn )
Nghệ thuật thơ văn ( tiếp)
Cái tài tình của Tú xương là chộp đúng cái thần của sự vật bằng vài nét điển hình rồi dùng lối nói thẳng thừng , táo bạo và hài hước của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi người xem :
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười thằng bé nó hay chơi
( Tự Cười Mình)
Có khi mượn lối chơi chữ :
Am không ra ấm , ấm ra nồi
Am chạy loăng quăng ấm chẳng ngồi
(Bỡn Ông Ấm Điềm)
Hoặc nhân cái mồm tu hú của đối tượng mà hạ ý thơ :
Cậu này ắt hẳn hay nghề sáo
dây vũ dây văn vụng ngón đàn
( Thông Gia Với Quan )
Nghệ thuật thơ văn ( tiếp)
Thơ trữ tình với lời thơ nhuần nhuyễn , ý thơ gần gũi, tứ thơ sâu lắng
thể hiện sâu xa tinh thần dân tộc : Đêm hè, nhớ bạn phương trời ,ngẫu hứng, sông Lấp .
Đề tài tuy không đa dạng bằng mảng thơ trào phúng nhưng sâu sắc , đậm đà, lấy nhiều chi tiết xác thực từ đời sống ( Thương Vợ ).
Có sự kết hợp yếu tố hiện thực và trữ tình, có tính độc đáo , phóng khóang trong ngôn ngữ :
Việc bác không xong tôi chết ngay
Chết ngay? Như thế vội vàng thay!
( Bỡn Người Làm Mối )
Sử dụng ngôn ngữ giản dị , chính xác uyển chuyển gợi hình, có tính chất dân gian.
TÚ XƯƠNG
LƯƠNG QUANG NHẬT MINH
LỚP : 11A5
THPT NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Giới thiệu
Thương vợ
Tác giả
Cuộc đời
Xuất xứ của bài thơ
Các nhà thơ nói về Vợ
Tú Xương nói về Vợ
Hình ảnh con cò
Nuôi chồng, nuôi con
Giới thiệu (cont.)
Lặn lội thân cò
Một duyên hai nợ
Tự trách
Nhận định
Ý nghĩa
Lời kết
Tài liệu tham khảo
Nghệ thuật thơ văn Trần Tế Xương
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom sông ,
Nuôi đủ năm con với một chồng .
Lặn lội thân cò khi quãng vắng ,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông .
Một duyên hai nợ âu đành phận ,
Năm nắng mười mưa dám quản công .
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc ,
Có chồng hờ hững cũng như không .
Tác giả
Tú Xương là một nhà nho, sinh không gặp thời, sống giữa cảnh Nho học suy tàn đang chuyển sang Tây học.
Ông là người có tài, học hành lỗi lạc, chữ tốt văn hay, nhưng trí ngang tàng, không thể ép mình vào quy chế cổ hủ bó buộc của khoa trường cũ rích .
Cuộc đời
Con đường khoa cử lận đận: 21 tuổi đỗ tú tài, thi cử nhân 8 lần cứ trượt rồi lại trượt, chỉ vì:
Rõ thực Nôm hay mà chữ dốt
Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui
Từ những bế tắc của tình cảnh ông trở thành nhà thơ trào phúng , cười cợt thói đời , phê phán con người và châm biếm với chính bản thân
Xuất xứ của bài thơ
Không rõ bài thơ đã sáng tác năm nào , chỉ biết qua nội dung là bà Tú đã " có 5 con " như vậy có thể tác giả đã viết ở khoảng trên dưới 30 tuổi.
Bài thơ nằm trong mảng thơ lấy bản thân mình hoặc vợ con ra làm đề tài tự trào,giọng điệu cười cợt nhưng có khi cười ra nước mắt.
Các nhà thơ nói về Vợ
Thường nói về vợ khi vợ đã qua đời.
Một số nhà thơ nói về vợ thường ca ngợi đức thờ chồng của các bà vợ theo quan điểm phu phụ của Nho giáo :
Tú Xương nói về Vợ
Tảo tần buôn bán để nuôi chồng, nuôi con.
Vì chồng vì con , không ngại đường xa, khổ nhọc.
Nhẫn nhục,cam chịu, nặng gánh lo .
Là con người sống tròn bổn phận, lấy sự hi sinh làm hạnh phúc.
Hình tượng người vợ lam lũ mà thục hiền, bình dị mà cao quý.
Hình ảnh con cò
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
Quanh năm buôn bán ở mom sông .
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Con cò trong ca dao và hình ảnh bà Tú giống nhau như 2 chị em: thân cò , mom sông,
Sự tần tảo , lòng vị tha của người vợ .
Nuôi chồng, nuôi con
Quanh năm : hết năm này đến năm khác, nỗi vất vả không ngơi ngày nào - mom sông làm cho nỗi vất vả thêm thế cheo leo, không vững vàng.
Nho giáo dành cho phụ nữ một công thức nhân sinh rất đơn giản: thờ chồng nuôi con thờ chồng bao hàm cả nuôi chồng ( cơm, rượu, bộ cánh, tiền trà rượu với bạn bè.) Nuôi đủ ( nuôi và cung phụng ) .
Tú Xương thấu hiểu và đánh giá đúng công lao của vợ thương vợ.
Ông chồng từng " vuốt râu", " quắc mắt" , " huênh hoang" : " Tiền bạc phó cho con mụ kiếm, ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi " lại tự hạ mình xuống ngang hàng với những đứa con , lại tự trách mình vô tài , bất lực trước nỗi vất vả của vợ rất thương vợ.
Lặn lội thân cò
Hình ảnh con cò gầy lêu khêu, lò dò đi kiếm ăn trên đồng
Người vợ lao động tảo tần, lúi húi 1 mình kiếm sống, lặn lội sớm khuya để nuôi chồng nuôi con
Quãng vắng : sự lẻ loi, đơn độc, nhiều hiểm nguy bất trắc, thiếu sự chở che, chia sẻ
Eo sèo, đò đông : sự mưu sinh khắc nghiệt, phức tạp
Người chồng thấy , hiểu nhưng không thể cùng chia sẻ nỗi vất vả , vẫn phải dựa vào sự tảo tần nhọc nhằn của vợ , vẫn giữ nếp phong lưu của mình : tự thấy mình có gì nhẫn tâm với vợ
Một duyên hai nợ
Những số đếm trong bài thơ : một duyên , hai nợ , năm nắng , mười mưa . bài thơ có ý nghĩa tính công?
Vì ông thương vợ, tính công cho vợ
Thương vợ đã cam lòng với số phận, ông tự trách mình đã là nỗi khổ của vợ, chính mình là của nợ của vợ
Tự trách
Au đành phận : không phải là cái tắc lưỡi hời hợt, không là tiếng thở dài cay đắng mà là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng với gia cảnh
Dám quản công : không than thân, không phiền lòng phẫn chí mà lặng lẽ ráng sức lo toan.
Tô đậm chân dung vợ , nhắc đến vợ với những nết tốt ẩn đàng sau đó là nỗi đắng xót của người quân tử và hàm chứa lòng tri ân
Càng thương vợ càng giận đời, giận mình, bật thành câu chửi " Cha mẹ thói đời."
Đỉnh điểm của lòng khổ tâm
Nhận định
Tú Xương đã chỉ ra nguyên nhân gây khổ cho vợ :
+ Đời bạc đã đày ải vợ hiền
+ Đời bạc đã biến mình thành chồng bạc: nam tử tài hoa thành người vô tích sự, phu quân phong nhã thành người hờ hững, nhẫn tâm
+ Thói đời đen bạc đã biến những giá trị thành vô giá trị
Tình thương đã thành lòng căm phẫn, lên án gay gắt cuộc đời đồng thời xỉ vả thậm tệ bản thân
Tình thương vợ sâu xa, thành thật
Ý nghĩa
Bài thơ là lời cảm khái tự trào, lấy cảnh gia đình riêng làm phạm vi nhưng đã mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Qua con người cụ thể đã khái quát được hình ảnh của người phụ nữ thời xưa : thương chồng thương con, một đời tần tảo, lo cho chồng con, yên lặng hi sinh, cam chịu số phận
Phản ứng của Tú Xương là lời chửi đổng vào thói đời,cái nếp sống cho phép người đàn ông sống trên lưng vợ mình một cách vô cùng bất công, phi nhân đạo
Lời kết
Sự công khai tự xỉ vả mình của Tú Xương : là thứ ăn hại , vô tình, vô lo, nhẫn tâm , bạc bẽo , có cũng như không.là ông đã đả kích vào kỉ cương phu phụ trịnh trọng và cứng rắn của ngàn xưa, đã thấy được và đã hổ thẹn với cái quan hệ phong kiến bất công vô nhân đạo
Thể hiện phong cách rất riêng của Tú Xương : nói sát bờ, sát gốc, tận cuống tận đầu, ráo riết , mãnh liệt, nghiêm trang nhưng hóm hỉnh, thâm sâu
Tài liệu tham khảo
TR?N T? XUONG (1871-1907)
Tên thật là Trần Duy Uyên, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích , đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương . Ong sinh ngày 10/8/1871 tại làng Vị Xuyên , huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định , mất ngày 20/1/1907 tại làng Địa Tứ cùng huyện.Ong cưới vợ rất sớm ( bà tên Phạm Thị Mẫn ) là một cô gái quê "con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợ , tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ " trở thành bà Tú tần tảo buôn bán , nuôi chồng, nuôi con.Gia cảnh , việc nhà Tú Xương trông cậy vào một tay bà Tú
Cuộc đời Tú Xương lận đận thi cử . Việc hỏng thi và cảnh nghèo là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xương
Nghệ thuật thơ văn Trần Tế Xương
Thơ trào phúng đa dạng , phong phú :
Các bài thơ vừa có hiện thực , vừa trào phúng, bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật , ông đã sử dụng tiếng cười làm vũ khí . Cười là cười phá , chửi là chửi độc , chua chát đến ứa mật, ứa máu.
Có những bài tự trào tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ ỡm ờ hoặc những từ thông tục. Tứ thơ thường độc đáo ,đột ngột,táo bạo gây sự chú ý vào chủ đề:
Hàn lâm tu sọan kém gì ai
Đủ cả xoong nồi, cả cóng chai
( Đưa ông Hàn )
Nghệ thuật thơ văn ( tiếp)
Cái tài tình của Tú xương là chộp đúng cái thần của sự vật bằng vài nét điển hình rồi dùng lối nói thẳng thừng , táo bạo và hài hước của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi người xem :
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười thằng bé nó hay chơi
( Tự Cười Mình)
Có khi mượn lối chơi chữ :
Am không ra ấm , ấm ra nồi
Am chạy loăng quăng ấm chẳng ngồi
(Bỡn Ông Ấm Điềm)
Hoặc nhân cái mồm tu hú của đối tượng mà hạ ý thơ :
Cậu này ắt hẳn hay nghề sáo
dây vũ dây văn vụng ngón đàn
( Thông Gia Với Quan )
Nghệ thuật thơ văn ( tiếp)
Thơ trữ tình với lời thơ nhuần nhuyễn , ý thơ gần gũi, tứ thơ sâu lắng
thể hiện sâu xa tinh thần dân tộc : Đêm hè, nhớ bạn phương trời ,ngẫu hứng, sông Lấp .
Đề tài tuy không đa dạng bằng mảng thơ trào phúng nhưng sâu sắc , đậm đà, lấy nhiều chi tiết xác thực từ đời sống ( Thương Vợ ).
Có sự kết hợp yếu tố hiện thực và trữ tình, có tính độc đáo , phóng khóang trong ngôn ngữ :
Việc bác không xong tôi chết ngay
Chết ngay? Như thế vội vàng thay!
( Bỡn Người Làm Mối )
Sử dụng ngôn ngữ giản dị , chính xác uyển chuyển gợi hình, có tính chất dân gian.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hanh Nguyen
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)