Tuần 3. Đọc thêm: Vịnh khoa thi Hương
Chia sẻ bởi Dương Thị Phương Quỳnh |
Ngày 10/05/2019 |
23
Chia sẻ tài liệu: Tuần 3. Đọc thêm: Vịnh khoa thi Hương thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
LỄ XƯỚNG DANH KHOA THI NĂM ĐINH DẬU
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa
Lọng cấm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
Tú Xương. Tranh của họa sĩ Trần Quang Trân vẽ sau khi ông Tú mất khoảng 20 năm
Bà Tú (Phạm Thị Mẫn). Tranh của họa sĩ Trần Quang Trân vẽ sau khi bà Tú đã mất
khoảng trên dưới 10 năm
I.Giới thiệu tác giả-tác phẩm
1.Tác giả
Tú xương sinh 5/9/1870 ở làng Vị Xuyên,huyện Mỹ Lộc,tỉnh Nam Định (nay là phố Minh Khai,phường Vị Xuyên,thành phố Nam Định)
Ông tên thật Trần Tế Xương,tự Mặc Trai,hiệu Mộng Tích,Tử Thịnh
Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.
Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886).)
Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành
Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cắu lên:
Tế đổi làm cao mà chó thế,
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !
2.Tác phẩm
Bài thơ còn có tên gọi khác là Vịnh Khoa Thi Hương
Đề tài:thi cử
Nội dung: miêu tả lễ xướng danh khoa thi tại trường Nam 1897,thể hiện thái độ mỉa mai,phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ khoa cử nhốn nháo,ô hợp của xã hội phong kiến nửa buổi đầu và tâm sự của nhà thơ trước tình cảnh ấy.
II.Văn bản
1.Hai câu đề
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Thời gian mở khoa thi: “ba năm mở một khoa”
Hình thức thi:trường Nam thi lẫn với trường Hà
‚ Sự lộn xộn,láo nháo,lôi thôi,thiếu nề nếp,quy cũ của cuộc thi
=> Sự lộn xộn,nhốn nháo,thấy được tình cảnh đất nước,sự áp đảo của ngoại bang
2.Hai câu thực
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quang trường miệng thét loa
Cảnh trường thi:
Sĩ tử:
Vai đeo lọ ‚ dáng dấp luộm thuộm
Lôi thôi sĩ tử:đảo ngữ‚ nhấn mạnh vẻ nhếch nhác,khong gọn gàng của những sĩ tử
=>Họ không có tư thế của những sĩ tử đi thi,của người làm chủ kiến thức trong kì thi
Quan trường: dáng vẻ ra oai,nạt nộ
“ậm oẹ quan trường”:đảo ngữ‚ làm nổi bật đối tượng người coi thi nói năng ậm oẹ,ấp úng,ra oai gượng gạo
“miệng thét loa”‚ thấy rõ sự nhốn nháo,quá lộn xộn của cảnh trường thi
=> Cảnh hỗn độn,nhếch nhác,tàn tạ,không mang tính chất của cuộc thi
3.Hai câu luận
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất,mụ đầm ra
Hình ảnh: quan sứ, mụ đầm ‚ làm tăng sự lố bịch của cuộc thi
“Lọng cắm rợp trời”: đón tiếp trang nghiêm, linh đình
“Váy lê quét đất” : cách ăn mặc loè loẹt,lố lăng
‚ sự phô trương về hình thức, nhố nhăng,lôi thôi
- Phép đối:quan sứ >< bà đầm
lọng cắm >< váy lê
-> bức tranh biếm hoạ
‚ trường thi đầy rẫy những đối lập,ngược đời,trớ trêu
=> Tiếng cười mỉa mai,chua chát của Tú Xương
4.Hai câu kết
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
Câu hỏi: “nhân tài đất Bắc nào ai đó” ‚ lời kêu gọi những người có lòng tự tôn dân tộc hãy thức tỉnh lại để:“Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”
“Ngoảnh cổ”: thái độ,tâm thế không cam tâm sống mãi trong cảnh đời nô lệ
“cảnh nước nhà”: hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước
=> Tấm lòng yêu nước,căm ghét bọn thực dân xâm lược,thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc
III.Tổng kết
1.Nội dung
Thể hiện thái độ châm biếm,đả kích của Tú Xương
Tâm trạng đau đớn,chua xót của nhà thơ trước hiện thực đất nước
2.Nghệ thuật
Kết hợp hài hoà giữa châm biếm đả kích và trữ tình
Nghệ thuật đảo ngữ,đối lập => bức tranh trường thi và sự nhố nhăng của khung cảnh tiếp đón quan sứ
Cảm ơn cô và các bạn đã theo dõi
pye pye
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa
Lọng cấm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
Tú Xương. Tranh của họa sĩ Trần Quang Trân vẽ sau khi ông Tú mất khoảng 20 năm
Bà Tú (Phạm Thị Mẫn). Tranh của họa sĩ Trần Quang Trân vẽ sau khi bà Tú đã mất
khoảng trên dưới 10 năm
I.Giới thiệu tác giả-tác phẩm
1.Tác giả
Tú xương sinh 5/9/1870 ở làng Vị Xuyên,huyện Mỹ Lộc,tỉnh Nam Định (nay là phố Minh Khai,phường Vị Xuyên,thành phố Nam Định)
Ông tên thật Trần Tế Xương,tự Mặc Trai,hiệu Mộng Tích,Tử Thịnh
Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.
Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886).)
Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành
Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cắu lên:
Tế đổi làm cao mà chó thế,
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !
2.Tác phẩm
Bài thơ còn có tên gọi khác là Vịnh Khoa Thi Hương
Đề tài:thi cử
Nội dung: miêu tả lễ xướng danh khoa thi tại trường Nam 1897,thể hiện thái độ mỉa mai,phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ khoa cử nhốn nháo,ô hợp của xã hội phong kiến nửa buổi đầu và tâm sự của nhà thơ trước tình cảnh ấy.
II.Văn bản
1.Hai câu đề
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Thời gian mở khoa thi: “ba năm mở một khoa”
Hình thức thi:trường Nam thi lẫn với trường Hà
‚ Sự lộn xộn,láo nháo,lôi thôi,thiếu nề nếp,quy cũ của cuộc thi
=> Sự lộn xộn,nhốn nháo,thấy được tình cảnh đất nước,sự áp đảo của ngoại bang
2.Hai câu thực
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quang trường miệng thét loa
Cảnh trường thi:
Sĩ tử:
Vai đeo lọ ‚ dáng dấp luộm thuộm
Lôi thôi sĩ tử:đảo ngữ‚ nhấn mạnh vẻ nhếch nhác,khong gọn gàng của những sĩ tử
=>Họ không có tư thế của những sĩ tử đi thi,của người làm chủ kiến thức trong kì thi
Quan trường: dáng vẻ ra oai,nạt nộ
“ậm oẹ quan trường”:đảo ngữ‚ làm nổi bật đối tượng người coi thi nói năng ậm oẹ,ấp úng,ra oai gượng gạo
“miệng thét loa”‚ thấy rõ sự nhốn nháo,quá lộn xộn của cảnh trường thi
=> Cảnh hỗn độn,nhếch nhác,tàn tạ,không mang tính chất của cuộc thi
3.Hai câu luận
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất,mụ đầm ra
Hình ảnh: quan sứ, mụ đầm ‚ làm tăng sự lố bịch của cuộc thi
“Lọng cắm rợp trời”: đón tiếp trang nghiêm, linh đình
“Váy lê quét đất” : cách ăn mặc loè loẹt,lố lăng
‚ sự phô trương về hình thức, nhố nhăng,lôi thôi
- Phép đối:quan sứ >< bà đầm
lọng cắm >< váy lê
-> bức tranh biếm hoạ
‚ trường thi đầy rẫy những đối lập,ngược đời,trớ trêu
=> Tiếng cười mỉa mai,chua chát của Tú Xương
4.Hai câu kết
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
Câu hỏi: “nhân tài đất Bắc nào ai đó” ‚ lời kêu gọi những người có lòng tự tôn dân tộc hãy thức tỉnh lại để:“Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”
“Ngoảnh cổ”: thái độ,tâm thế không cam tâm sống mãi trong cảnh đời nô lệ
“cảnh nước nhà”: hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước
=> Tấm lòng yêu nước,căm ghét bọn thực dân xâm lược,thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc
III.Tổng kết
1.Nội dung
Thể hiện thái độ châm biếm,đả kích của Tú Xương
Tâm trạng đau đớn,chua xót của nhà thơ trước hiện thực đất nước
2.Nghệ thuật
Kết hợp hài hoà giữa châm biếm đả kích và trữ tình
Nghệ thuật đảo ngữ,đối lập => bức tranh trường thi và sự nhố nhăng của khung cảnh tiếp đón quan sứ
Cảm ơn cô và các bạn đã theo dõi
pye pye
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Dương Thị Phương Quỳnh
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)