Tuần 29. Về luân lí xã hội ở nước ta

Chia sẻ bởi Hà Huyền Hoài Hà | Ngày 10/05/2019 | 50

Chia sẻ tài liệu: Tuần 29. Về luân lí xã hội ở nước ta thuộc Ngữ văn 11

Nội dung tài liệu:

Trường THPT Vân Canh
Giáo viên: Hà Huyền Hoài Hà
* Kiểm tra bài cũ:
Cảm nhận của em về nhân vật Gia-ve?
Đáp án:
Giọng nói như tiếng thú gầm, cặp mắt như cái móc sắt, hành động thô bạo tiến vào phòng ngoạm cổ con mồi, . như con thú vồ mồi, gọi Phăng-tin là con đĩ, quát tháo, nói ra sự thật, lật tẩy vật Giăng Van-giăng là tên tù chứ không phải ông thị trưởng tốt bụng .
Kết quả Phăng-tin chết -> không hề xúc động trước cái chết của đồng loại, trước tình mẫu tử.
Nghệ thuật: so sánh, phóng đại, ẩn dụ.
Hiện thân là một con ác thú.

潘周楨
Tiết 100: VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA -Phan Châu Trinh-
Đám tang cụ Phan Châu Trinh
I. ĐỌC - TÌM HIỂU CHUNG:
1. Tác giả:
(1872 - 1926)

1. Tác giả:
- Phan Châu Trinh (1872 - 1926) hiệu Tây Hồ, Hi Mã .
Quê hương: Quảng Nam .
- Bản thân:
+ Là nhà chính trị - nhà văn - nhà thơ lớn.
+ Thông minh, học giỏi, có tư tưởng tiến bộ.




Cuộc đời ông nêu cao tấm gương yêu nước thương nòi, đổi mới đất nước.
Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào? Viết bằng
ngôn ngữ và thể loại gì? Đọc diễn cảm và tìm bố cục?
2. Tác phẩm :


a. Xuất xứ :
- Viết 1925
- Đoạn trích nằm ở phần 3 của bài "Đạo đức và luân lí Đông Tây" (gồm 5 phần)
- Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19/11/1925 tại Nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn.

b. Mục đích:
Kêu gọi thanh niên và quốc dân Việt Nam gây dựng nền luân lí xã hội ở nước ta.
c. Thể loại:
Văn chính luận.
d. Bố cục:
3 đoạn:
- Đoạn 1: Việt Nam chưa có luân lí xã hội.
- Ñoaïn 2: Luaân lí xaõ hoäi phaùt trieån maïnh ôû Chaâu AÂu.
- Ñoaïn 3: Taùc giaû baøy toû khaùt voïng muoán phaùt trieån luaân lí ôû nöôùc ta.
II. Đọc - hiểu văn bản:
1. Tác giả quan niệm về luân lí xã hội:
a. Quan niệm:
- Luân lí : hệ thống đạo đức của xã hội loài người (Từ điển)
- Xaõ hoäi : taäp ñoaøn ngöôøi xaây döïng treân quan heä veà saûn xuaát, gia ñình, chính trò, vaên hoùa, …
Nguyên tắc : ý thức nghĩa vụ giữa người với người.
- Bản chất của luân lí xã hội :
+ coi trọng bình đẳng của con người.
+ quan taâm gia ñình, quoác gia, theá giôùi.
b. Cách đặt vấn đề:
- Trực tiếp bằng cách nói phủ định -> "Xã hội . hơn nhiều" -> tư duy sắc sảo nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
c. Cách lí giải vấn đề:
So sánh :
Thảo luận nhóm - 5 phút
LUÂN LÍ XÃ HỘI
So sánh, thành ngữ, tục ngữ, câu cảm thán, .
Văn chính luận của PCT được viết bằng sự tỉnh táo của lí trí và sự rung động của trái tim đầy yêu thương căm giận nên hấp dẫn người đọc.



2. Khát vọng của Phan Châu Trinh:
- Liên hệ phương Tây ->
- Chủ trương:
III. TỔNG KẾT:
Nghệ thuật: Văn chính luận mẫu mực vì: lập luận chặt chẽ, giàu cảm xúc, dẫn chứng xác đáng -> bài diễn thuyết thành công.
Nội dung: Đoạn trích thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân chủ và tầm nhìn chiến lược của nhà yêu nước PCT.
* Ghi nhớ: Sách giáo khoa trang 88.
IV. Luyện tập:
"Ảnh hưởng của Phan Châu Trinh đối với đất nước và dân tộc ta như thế nào?


V. Dặn dò:
? Học bài.
? Làm các bài tập trang 1,2,3/88 - Sgk.
? Soạn bài: "Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức"- Nguyễn An Ninh.


Cảm ơn quý thầy cô và các em đã theo dõi bài giảng này !
Phan Chu Trinh 潘周楨 (Nhâm Thân 1872 - Bính Dần 1926), hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, thị xã Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam).

Cha ông là Phan Văn Bình giữ một chức võ quan nhỏ, sau năm 1885 theo phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm chuyển vận sứ phụ trách việc quân lương. Sau khi kinh thành Huế thất thủ (1885), ông theo cha, tập luyện võ nghệ, bắn cung, cưỡi ngựa.

Năm cha mất, Phan Chu Trinh mới 16 tuổi, gia đình phải dựa vào sự lo liệu của người anh cả. Năm 1892, ông đi học, bạn cùng học là Huỳnh Thúc Kháng kém ông 4 tuổi. Ông nổi tiếng học giỏi.


Năm 1900, Phan Chu Trinh đỗ cử nhân; năm sau (1901), ông đỗ phó bảng. Năm 1902, ông vào học trường Hậu bổ, rồi ra làm quan với chức quan Thừa biện bộ Lễ. Tại triều đình, ông được chứng kiến cảnh mục nát hủ bại của quan trường, nên sinh ra chán nản, có khi vài tháng không đến cơ quan. Nhưng chính vào thời gian đó, ông giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm..., được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, Tân thư giới thiệu tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tư tưởng dân quyền của Rousseau, Montesquieu..., phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, cách mạng ở Pháp, Mỹ.



Tháng 7-1904, Phan Chu Trinh gặp Phan Bội Châu, hai người trở thành đôi bạn tâm đắc. Cuối năm đó, lấy cớ phải chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay anh cả đã mất, ông cáo quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước.

Mặc dù rất đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của ông trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, mà nhiệm vụ cấp bách là phải:
- Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế.
- Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.
- Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa...
Tháng 7-1907, Phan Chu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp.
Đầu tháng 3-1908, cuộc nổi dậy đòi giảm sưu thuế của nông dân bùng nổ tại Quảng Nam, rồi lan ra các tỉnh. Khâm sứ Trung Kỳ nhờ Thống sứ Bắc Kỳ cho bắt Phan Chu Trinh tại Hà Nội ngày 31-3, sau đó giải về Huế giao cho Nam triều giam giữ. Hội đồng xét xử gồm các quan lại Nam triều, có Khâm sứ Trung Kỳ ngồi dự đã kết án chém. Nhưng do sự can thiệp kịp thời của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Liên minh nhân quyền tại Hà Nội, Phan Chu Trinh chỉ bị đày đi Côn Đảo.
Đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Đảo thẩm vấn riêng Phan Chu Trinh.


Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án được thiết lập, ông được "ân xá", nhưng buộc phải xuống ở Mỹ Tho để quản thúc. Sau đó ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31-10-1908 của Chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, Phan Chu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật đi theo đoàn này. Sang tới Pháp, ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Nhiều Việt kiều tại Pháp cũng đến với Phan Chu Trinh. Phan Chu Trinh cùng với Phan Văn Trường đã lập Hội đồng bào thân ái gồm những Việt kiều gắn bó với quê hương.
Ông viết bản điều trần về cuộc đấu tranh chống sưu thuế năm 1908 ở miền trung Việt Nam gửi Liên minh nhân quyền.


Trong những năm sống ở thủ đô Pháp, ông làm nghề sửa ảnh, sống thanh bạch. Năm 1926, ông về nước và mất ở Sài Gòn.
Phan Chu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước chân chính, có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể khẳng định rằng ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ. Tuy nhiên, Phan Chu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ - dù là do thực dân nắm giữ - để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Sai lầm chính của ông chính là ảo tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của nước Pháp.



* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Hà Huyền Hoài Hà
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)