Tuần 27. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Chia sẻ bởi Lê Thương |
Ngày 09/05/2019 |
45
Chia sẻ tài liệu: Tuần 27. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thuộc Ngữ văn 10
Nội dung tài liệu:
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Nguyên tác chữ hán: Đặng Trần Côn
Dịch: Đoàn Thị Điểm
1.Tác giả và dịch giả:
- Đặng Trần Côn (?), người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
- Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII.
a.Tác giả:
- Tác phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm.
- Là người thông minh, tài hoa và hiếu học.
b. Dịch giả:
- Tác phẩm tiêu biểu: bản dịch Chinh phụ ngâm; Truyền kì tân phả.
* Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
- Quê ở làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (Nay là tỉnh Hưng Yên).
- Xuất thân trong một gia đình nhà Nho.
- Là người tài sắc, thông minh.
* Phan Huy Ích (1750 - 1822)
- Tác phẩm tiêu biểu: “ Dụ Am văn tập”, “Dụ Am ngâm lục”
Quê làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, Nghệ An (nay là Hà Tĩnh).
Đỗ Tiến sĩ năm 26 tuổi.
Tranh vẽ Phan Huy Ích năm 1790
2. Tác phẩm:
a. Nhan đề
=> Chinh phụ ngâm: Khúc ngâm của những người vợ có chồng đi chinh chiến
Chinh phụ ngâm được viết vào khoảng những năm 40 của thế kỉ XVIII.
b. Hoàn cảnh sáng tác:
+ Là tiếng nói oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
+ Thể hiện khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.
c. Giá trị nội dung
c. Thể loại:
- Bản diễn Nôm theo thể ngâm khúc, thể song thất lục bát.
- Nguyên tác viết bằng chữ Hán, gồm 478 câu thơ theo thể thơ trường đoản cú (câu dài ngắn khác nhau).
3. Vị trí, bố cục đọan trích
* Vị trí:
Đoạn trích từ câu 193 – 216.
-> Nói lên tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
- Đoạn 2(8 câu cuối): Nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa.
* Bố cục:
Chia làm hai phần:
- Đoạn 1(16 câu đầu): Nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
1. Tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
a. Tám câu đầu.
- Không gian, thời gian:
+ Hiên vắng
+ Trong phòng
-> chật hẹp, vắng lặng.
- Hành động:
+ Dạo ... từng bước.
+ Ngồi
+ Rủ thác đòi phen (buông rèm, cuốn rèm)
-> lặp đi lặp lại, không mục đích, vô nghĩa
-> rối bời, cô đơn, lẻ loi
- “ Thước chẳng mách tin” -> trách móc, mong ngóng, hy vọng đã thành vô vọng
+ Ngoài rèm... : ngày
+ Trong rèm...: đêm
-> dài dằng dặc
- Hình ảnh:
+ Ngọn đèn :
. Điệp ngữ bắc cầu: “đèn biết chăng?”- “đèn có biết”
-> tâm trạng cô đơn, lẻ loi chỉ mình mình biết chỉ mình mình hay
. diễn tả bước đi của thời gian.
. Câu hỏi tu từ: “đèn biết chăng?”-> đã thể hiện mong muốn sẻ chia.
- Hoa đèn = bóng người
-> con người đã bị “vật hóa” tựa như tàn đèn, vừa đối xứng vừa đồng dạng và là hiện thân của kiếp hoa đèn tàn lụi
Tiểu kết: Thông qua nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc, tám câu thơ đầu đã diễn tả tâm trạng của người chinh phụ trong không gian cô tịch, chờ mong tin chồng đến thẫn thờ mà chẳng thấy, khao khát sự sẻ chia mà suốt đêm thâu phải đối diện với nỗi cô đơn, tàn tạ theo thời gian -> Nỗi cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ.
- Ngôn ngữ:
+ Buồn rầu
+ Bi thiết
-> cực tả cảm giác cô đơn, tuyệt vọng, bế tắc.
+ Khá thương:
-> Tác giả, dịch giả đồng cảm với tình cảnh vô cùng lẻ loi của chinh phụ. Đồng thời bênh vực và trân trọng những khát vọng hạnh phúc của con người.->Tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa
tuyệt vọng và tự thương cho chính mình
-> niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.
Người chinh phụ nhờ gió gửi niềm nhớ thương đến chồng
+ Gió Đông (gió xuân); Non Yên (ước lệ); bằng trời (so sánh) không gian cao rộng, vô tận
+ Từ láy: thăm thẳm (độ sâu, dài, không giới hạn triền miên, không dứt); đau đáu (trăn trở, giày vò, vướng vít) Nỗi nhớ vô cùng, khoảng cách thăm thẳm giữa hai người Nỗi nhớ vô hạn của người chinh phụ.
- Tứ thơ chuyển đổi:
c) Tám câu cuối
+ Âm điệu, nhạc điệu của thể thơ song thất lục bát
+ Điệp ngữ bắc cầu (non Yên; thăm thẳm)
Nỗi buồn, niềm thương nhớ triền miên, dằng dặc, vô tận
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
- Khao khát của nàng không được đền đáp vì sự xa cách về không gian quá lớn “đường lên bằng trời”
=> Nàng trở về với hiện thực buồn đau, quạnh vắng:
sương đượm, tiếng trùng, mưa phun = lạnh lẽo, cô liêu, hoang vắng.
Bức tranh tâm trạng của người chinh phụ cũng hoang vắng và hiu hắt như thế.
*Nghệ thuật:
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật.
- Ngôn từ chọn lọc, nhiều biện pháp tu từ...
*Ý nghĩa văn bản:
Ghi lại nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ trong tình cảnh chia lìa; đề cao hạnh phúc lứa đôi và tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến.
THANKS FOR WATCHING
Nguyên tác chữ hán: Đặng Trần Côn
Dịch: Đoàn Thị Điểm
1.Tác giả và dịch giả:
- Đặng Trần Côn (?), người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
- Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII.
a.Tác giả:
- Tác phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm.
- Là người thông minh, tài hoa và hiếu học.
b. Dịch giả:
- Tác phẩm tiêu biểu: bản dịch Chinh phụ ngâm; Truyền kì tân phả.
* Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
- Quê ở làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (Nay là tỉnh Hưng Yên).
- Xuất thân trong một gia đình nhà Nho.
- Là người tài sắc, thông minh.
* Phan Huy Ích (1750 - 1822)
- Tác phẩm tiêu biểu: “ Dụ Am văn tập”, “Dụ Am ngâm lục”
Quê làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, Nghệ An (nay là Hà Tĩnh).
Đỗ Tiến sĩ năm 26 tuổi.
Tranh vẽ Phan Huy Ích năm 1790
2. Tác phẩm:
a. Nhan đề
=> Chinh phụ ngâm: Khúc ngâm của những người vợ có chồng đi chinh chiến
Chinh phụ ngâm được viết vào khoảng những năm 40 của thế kỉ XVIII.
b. Hoàn cảnh sáng tác:
+ Là tiếng nói oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
+ Thể hiện khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.
c. Giá trị nội dung
c. Thể loại:
- Bản diễn Nôm theo thể ngâm khúc, thể song thất lục bát.
- Nguyên tác viết bằng chữ Hán, gồm 478 câu thơ theo thể thơ trường đoản cú (câu dài ngắn khác nhau).
3. Vị trí, bố cục đọan trích
* Vị trí:
Đoạn trích từ câu 193 – 216.
-> Nói lên tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
- Đoạn 2(8 câu cuối): Nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa.
* Bố cục:
Chia làm hai phần:
- Đoạn 1(16 câu đầu): Nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
1. Tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
a. Tám câu đầu.
- Không gian, thời gian:
+ Hiên vắng
+ Trong phòng
-> chật hẹp, vắng lặng.
- Hành động:
+ Dạo ... từng bước.
+ Ngồi
+ Rủ thác đòi phen (buông rèm, cuốn rèm)
-> lặp đi lặp lại, không mục đích, vô nghĩa
-> rối bời, cô đơn, lẻ loi
- “ Thước chẳng mách tin” -> trách móc, mong ngóng, hy vọng đã thành vô vọng
+ Ngoài rèm... : ngày
+ Trong rèm...: đêm
-> dài dằng dặc
- Hình ảnh:
+ Ngọn đèn :
. Điệp ngữ bắc cầu: “đèn biết chăng?”- “đèn có biết”
-> tâm trạng cô đơn, lẻ loi chỉ mình mình biết chỉ mình mình hay
. diễn tả bước đi của thời gian.
. Câu hỏi tu từ: “đèn biết chăng?”-> đã thể hiện mong muốn sẻ chia.
- Hoa đèn = bóng người
-> con người đã bị “vật hóa” tựa như tàn đèn, vừa đối xứng vừa đồng dạng và là hiện thân của kiếp hoa đèn tàn lụi
Tiểu kết: Thông qua nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc, tám câu thơ đầu đã diễn tả tâm trạng của người chinh phụ trong không gian cô tịch, chờ mong tin chồng đến thẫn thờ mà chẳng thấy, khao khát sự sẻ chia mà suốt đêm thâu phải đối diện với nỗi cô đơn, tàn tạ theo thời gian -> Nỗi cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ.
- Ngôn ngữ:
+ Buồn rầu
+ Bi thiết
-> cực tả cảm giác cô đơn, tuyệt vọng, bế tắc.
+ Khá thương:
-> Tác giả, dịch giả đồng cảm với tình cảnh vô cùng lẻ loi của chinh phụ. Đồng thời bênh vực và trân trọng những khát vọng hạnh phúc của con người.->Tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa
tuyệt vọng và tự thương cho chính mình
-> niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.
Người chinh phụ nhờ gió gửi niềm nhớ thương đến chồng
+ Gió Đông (gió xuân); Non Yên (ước lệ); bằng trời (so sánh) không gian cao rộng, vô tận
+ Từ láy: thăm thẳm (độ sâu, dài, không giới hạn triền miên, không dứt); đau đáu (trăn trở, giày vò, vướng vít) Nỗi nhớ vô cùng, khoảng cách thăm thẳm giữa hai người Nỗi nhớ vô hạn của người chinh phụ.
- Tứ thơ chuyển đổi:
c) Tám câu cuối
+ Âm điệu, nhạc điệu của thể thơ song thất lục bát
+ Điệp ngữ bắc cầu (non Yên; thăm thẳm)
Nỗi buồn, niềm thương nhớ triền miên, dằng dặc, vô tận
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
- Khao khát của nàng không được đền đáp vì sự xa cách về không gian quá lớn “đường lên bằng trời”
=> Nàng trở về với hiện thực buồn đau, quạnh vắng:
sương đượm, tiếng trùng, mưa phun = lạnh lẽo, cô liêu, hoang vắng.
Bức tranh tâm trạng của người chinh phụ cũng hoang vắng và hiu hắt như thế.
*Nghệ thuật:
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật.
- Ngôn từ chọn lọc, nhiều biện pháp tu từ...
*Ý nghĩa văn bản:
Ghi lại nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ trong tình cảnh chia lìa; đề cao hạnh phúc lứa đôi và tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến.
THANKS FOR WATCHING
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Thương
Dung lượng: |
Lượt tài: 5
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)