Tuần 25. Đọc thêm: Một người Hà Nội
Chia sẻ bởi Huỳnh Vĩnh Lộc |
Ngày 09/05/2019 |
20
Chia sẻ tài liệu: Tuần 25. Đọc thêm: Một người Hà Nội thuộc Ngữ văn 12
Nội dung tài liệu:
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Nguyễn Khải
Tác giả
a . Cuộc đời :
- Nguyễn Khải (1930 – 2008) , tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, sinh tại Hà Nội.
- Năm 1947 , ông gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo.
- Từ năm 1956 ông công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, là Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam.
- Ông bắt đầu viết văn từ năm 1950. Năm 1951 được tặng giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ 1951 – 1952 với truyện Xây dựng và bắt đầu được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột
- Sau 1975, ông chuyển vào sinh sống, công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Năm 2000 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác giả
b . Sự nghiệp sáng tác :
Tác phẩm :
Tiểu thuyết : Xung đột (phần 1 – 1957, phần 2 - 1962), Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chiến sĩ (1973), Cha và con, và … (1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời gian của người (1985)
Các tập truyện : Mùa lạc (1960), Một chặng đường (truyện dài, 1962), Tầm nhìn xa (truyện, 1963), Người trở về (tập truyện vừa, 1964), Chủ tịch huyện (truyện, 1972), Một người Hà Nội (1990), Một thời gió bụi (1993), Hà Nội trong mắt tôi (1995), Sống ở đời (2002)
Bút kí, kí sự : Họ đã sống và chiến đấu (1966), Hòa Vang (1967), Tháng ba ở Tây Nguyên (1976)
Tác giả
b . Sự nghiệp sáng tác :
Đặc điểm sáng tác :
Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá trình vận động của văn học dân tộc hơn nửa thế kỉ qua
Là nhà văn xông xáo, luôn bám sát thời sự, ông nổi bật ở khả năng phát hiện vấn đề, phân tích tâm lí sắc sảo
Đặc điểm sáng tác
Về nội dung :
Trước 1975 : ông có nhiều tác phẩm viết về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, viết về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mĩ
Sau 1975 : sáng tác của ông đề cập đến nhiều vấn đề xã hội – chính trị có tính thời sự và đặc biệt quan tâm đến tính cách, tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống.
Về bút pháp, cảm hứng :
Trước 1978 : ông đem lại ấn tượng về một ngòi bút văn xuôi có khuynh hướng chính luận với sức mạnh của lí trí tỉnh táo.
Sau 1978 : sáng tác của ông ngả dần sang cảm hứng triết luận và có sự quan tâm đến số phận cá nhân trong cuộc đời thường với giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm.
Đặc điểm sáng tác
Tác phẩm
a . Xuất xứ :
- Một người Hà Nội được in trong tập truyện ngắn cùng tên xuất bản năm 1990, sau được in lại trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi (1995)
- Truyện ngắn này phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.
b. Tóm tắt:
c. Ý nghĩa nhan đề :
Nhan đề tác phẩm như kết lắng lại những suy tư của tác giả về bà Hiền - một người Hà Nội tiêu biểu trong những người Hà Nội. Trong mắt nhìn của tác giả, bà Hiền là biểu tượng của đất Hà thành, một thế hệ mang đậm “chất kinh kì” còn ở lại cùng Hà Nội hôm nay. Nhân vật này không chỉ hiện lên với tư cách một cá thể, một con người cụ thể mà còn chính là tinh túy, là giá trị muôn đời của Hà Nội, là một di sản văn hóa sống động của đất kinh kì.
- Đồng thời, khi truyện ngắn này được đưa vào tập truyện Hà Nội trong mắt tôi (1995), nhan đề vừa gợi một biểu tượng về Hà Nội, kích thích trí tò mò, hứng thú của độc giả vừa thể hiện những suy tư của tác giả về con người, tính cách, lối sống Hà Nội trước những biến thiên của lịch sử.
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẦN CHÚ Ý CỦA
VĂN HỌC GIAI ĐOẠN SAU 1975
Vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc
Có sự đổi mới trong cách nhìn nhận, tiếp cận con người và hiện thực
Khám phá con người từ
góc nhìn văn hóa
Quan hệ với chính bản thân mình
Quan hệ với đời sống xã hội
Quan hệ với môi trường tự nhiên
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Thời son trẻ, bà giao du với đủ loại thanh niên con nhà giàu, nghệ sĩ văn nhân, nhưng khi phải làm vợ làm mẹ, bà lại “chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ” .
Bà quyết định chấm dứt sinh đẻ (bà sinh năm đứa con, đến đứa con gái út, bà nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị”
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Việc bà dạy bảo con cháu từ những chuyện nhỏ đến việc lớn như quan niệm sống, cách sống, cô luôn dạy bảo và yêu cầu các con, cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”, “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ…” thể hiện rõ cách sống của một người Hà Nội lịch sự, tế nhị, hào hoa, biết giữ gìn phẩm chất, giá trị của người Hà Nội.
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Không gian sống :
Nhà của bà rộng rãi, “tọa lạc ngay tại một đường phố lớn”, phòng khách bày biện, trang hoàng nền nã, cổ kính: một cái bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy chục năm không thay đổi, một bộ xa lông gụ “cái khánh, cái sập gụ chân quỳ chạm rất đẹp, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một lọ men Thuý hồng, một cái lư hương đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây và mấy thứ bình lọ màu men thường nhưng có dáng lạ.”
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Trang phục :
Lúc cần, đã biết rũ bỏ "đồng phục" để hoá thân thành những con người khác, đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn : "bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển".
Hoặc tác giả đã miêu tả : “mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông , đi giày nhung đính hạt cườm”
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Sinh hoạt :
Cái ăn cũng không giống số đông. Nhân vật người cháu kể rằng: bàn ăn của nhà bà Hiền trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, từng người ngồi đúng chỗ quy định….
Gia đình bà Hiền thỉnh thoảng tổ chức một cuộc họp mặt thân mật gồm những bạn văn chương, trí thức để chia sẻ buồn vui, nỗi niềm trước cuộc đời.
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
a) Trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
Khi nghe chồng có ý định mở hiệu in, bà không đồng ý vì : “Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất phải có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à?”.
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
a) Trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Mặc dù có “bộ mặt rất tư sản, cách sống rất tư sản”, nhưng bà Hiền không phải học tập, cải tạo vì bà “không bóc lột ai cả”.
- Bà Hiền cho người giúp việc về quê lao động, mở cửa hàng bán đồ lưu niệm và tự tay làm ra sản phẩm. Tác giả có nhận xét là “hoa làm rất đẹp, bán rất đắt”, nhưng “chỉ có một mình cô làm, các em thì chạy mua vật liệu”.
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
a) Trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trước tình hình xã hội miền Bắc bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh sau kháng chiến chống Pháp, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhiều bề bộn, nhiều bất cập, bà nhận xét: “Vui hơn nhiều, nói cũng hơi nhiều…chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá…” .
Thái độ ứng xử nhằm “thích ứng” của bà Hiền cũng được diễn tả một cách rõ ràng và táo bạo : “Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn.”
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
b) Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ :
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, trước việc người con lớn xin tình nguyện tòng quân, khi người cháu hỏi : “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” , bà đã nói ra một sự thật: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng.”
Người con trai thứ hai hừng hực khí thế thanh niên thời đại đòi lên đường, bà cũng có một cách ứng xử của một người mẹ hiểu rõ tâm tư thế hệ con cháu: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.
Nhân vật bà Hiền
3. Trong quan hệ với môi trường tự nhiên :
Để đón ngày Tết, bà sắp xếp lại phòng khách và rất tỉ mỉ “lau đánh một cái bát thủy tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nổi bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt thật đẹp”. Bà đang chuẩn bị đón chào tân xuân theo một nhã thú rất phổ biến hình thành từ xa xưa truyền đến ngày nay chỉ riêng người Hà Nội mới có.
Nhân vật bà Hiền
3. Trong quan hệ với môi trường tự nhiên :
Nghe những lời bình luận của người cháu về người Hà Nội hiện nay, bà Hiền “không bình luận một lời nào”, chỉ lẳng lặng nói về những dự cảm của mình, về câu chuyện cây si cổ thụ đền Ngọc Sơn. Bà nhận xét: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”; đồng thời bà cũng đã bộc lộ một niềm tin vào Hà Nội, vì theo bà thì thời nào Hà Nội “cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi” .
Nhân vật bà Hiền
Không thuộc kiểu người xuất chúng, bà Hiền là một người Hà Nội bình thường nhưng rất đậm cốt cách Hà Nội. Phẩm chất bền vững thuộc về đạo lí làm người muôn đời chính là cơ sở giúp bà Hiền có thể sống tốt, sống đẹp ở mọi thời, trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội, dù thời cuộc có lúc thăng trầm
Đặt vào bối cảnh đầy biến động của lịch sử, người phụ nữ ấy vẫn giữ nếp nhà , giữ vẹn cốt cách người Hà Nội. Cùng với thời gian, sự lịch lãm Hà Thành dường như là tích tụ tinh hoa nơi con người này.
Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó.
Nhận xét :
Những nét nghệ thuật đặc sắc
Một người Hà Nội rất gần với tùy bút, không có độ căng của những sự kiện , biến cố mà chủ yếu hấp dẫn người đọc bởi mạch cảm xúc, dòng suy tưởng của cái tôi tác giả.
Giọng điệu trần thuật rất trải đời, vừa tự nhiên, dân dã vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí, vừa đậm tính đa thanh.
Xây dựng nhân vật : tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” với các nhân vật khác cũng là cách để khám phá, phát hiện tính cách các nhân vật ; ngôn ngữ các nhân vật cũng góp phần khắc hoạ sâu sắc tính cách của từng người; khám phá con người từ góc nhìn văn hóa , nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và tiếp nối thế hệ
Nguyễn Khải
Tác giả
a . Cuộc đời :
- Nguyễn Khải (1930 – 2008) , tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, sinh tại Hà Nội.
- Năm 1947 , ông gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo.
- Từ năm 1956 ông công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, là Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam.
- Ông bắt đầu viết văn từ năm 1950. Năm 1951 được tặng giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ 1951 – 1952 với truyện Xây dựng và bắt đầu được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột
- Sau 1975, ông chuyển vào sinh sống, công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Năm 2000 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác giả
b . Sự nghiệp sáng tác :
Tác phẩm :
Tiểu thuyết : Xung đột (phần 1 – 1957, phần 2 - 1962), Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chiến sĩ (1973), Cha và con, và … (1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời gian của người (1985)
Các tập truyện : Mùa lạc (1960), Một chặng đường (truyện dài, 1962), Tầm nhìn xa (truyện, 1963), Người trở về (tập truyện vừa, 1964), Chủ tịch huyện (truyện, 1972), Một người Hà Nội (1990), Một thời gió bụi (1993), Hà Nội trong mắt tôi (1995), Sống ở đời (2002)
Bút kí, kí sự : Họ đã sống và chiến đấu (1966), Hòa Vang (1967), Tháng ba ở Tây Nguyên (1976)
Tác giả
b . Sự nghiệp sáng tác :
Đặc điểm sáng tác :
Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá trình vận động của văn học dân tộc hơn nửa thế kỉ qua
Là nhà văn xông xáo, luôn bám sát thời sự, ông nổi bật ở khả năng phát hiện vấn đề, phân tích tâm lí sắc sảo
Đặc điểm sáng tác
Về nội dung :
Trước 1975 : ông có nhiều tác phẩm viết về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, viết về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mĩ
Sau 1975 : sáng tác của ông đề cập đến nhiều vấn đề xã hội – chính trị có tính thời sự và đặc biệt quan tâm đến tính cách, tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống.
Về bút pháp, cảm hứng :
Trước 1978 : ông đem lại ấn tượng về một ngòi bút văn xuôi có khuynh hướng chính luận với sức mạnh của lí trí tỉnh táo.
Sau 1978 : sáng tác của ông ngả dần sang cảm hứng triết luận và có sự quan tâm đến số phận cá nhân trong cuộc đời thường với giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm.
Đặc điểm sáng tác
Tác phẩm
a . Xuất xứ :
- Một người Hà Nội được in trong tập truyện ngắn cùng tên xuất bản năm 1990, sau được in lại trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi (1995)
- Truyện ngắn này phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.
b. Tóm tắt:
c. Ý nghĩa nhan đề :
Nhan đề tác phẩm như kết lắng lại những suy tư của tác giả về bà Hiền - một người Hà Nội tiêu biểu trong những người Hà Nội. Trong mắt nhìn của tác giả, bà Hiền là biểu tượng của đất Hà thành, một thế hệ mang đậm “chất kinh kì” còn ở lại cùng Hà Nội hôm nay. Nhân vật này không chỉ hiện lên với tư cách một cá thể, một con người cụ thể mà còn chính là tinh túy, là giá trị muôn đời của Hà Nội, là một di sản văn hóa sống động của đất kinh kì.
- Đồng thời, khi truyện ngắn này được đưa vào tập truyện Hà Nội trong mắt tôi (1995), nhan đề vừa gợi một biểu tượng về Hà Nội, kích thích trí tò mò, hứng thú của độc giả vừa thể hiện những suy tư của tác giả về con người, tính cách, lối sống Hà Nội trước những biến thiên của lịch sử.
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẦN CHÚ Ý CỦA
VĂN HỌC GIAI ĐOẠN SAU 1975
Vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc
Có sự đổi mới trong cách nhìn nhận, tiếp cận con người và hiện thực
Khám phá con người từ
góc nhìn văn hóa
Quan hệ với chính bản thân mình
Quan hệ với đời sống xã hội
Quan hệ với môi trường tự nhiên
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Thời son trẻ, bà giao du với đủ loại thanh niên con nhà giàu, nghệ sĩ văn nhân, nhưng khi phải làm vợ làm mẹ, bà lại “chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ” .
Bà quyết định chấm dứt sinh đẻ (bà sinh năm đứa con, đến đứa con gái út, bà nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị”
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Việc bà dạy bảo con cháu từ những chuyện nhỏ đến việc lớn như quan niệm sống, cách sống, cô luôn dạy bảo và yêu cầu các con, cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”, “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ…” thể hiện rõ cách sống của một người Hà Nội lịch sự, tế nhị, hào hoa, biết giữ gìn phẩm chất, giá trị của người Hà Nội.
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Không gian sống :
Nhà của bà rộng rãi, “tọa lạc ngay tại một đường phố lớn”, phòng khách bày biện, trang hoàng nền nã, cổ kính: một cái bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy chục năm không thay đổi, một bộ xa lông gụ “cái khánh, cái sập gụ chân quỳ chạm rất đẹp, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một lọ men Thuý hồng, một cái lư hương đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây và mấy thứ bình lọ màu men thường nhưng có dáng lạ.”
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Trang phục :
Lúc cần, đã biết rũ bỏ "đồng phục" để hoá thân thành những con người khác, đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn : "bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển".
Hoặc tác giả đã miêu tả : “mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông , đi giày nhung đính hạt cườm”
Nhân vật bà Hiền
Trong quan hệ với chính bản thân :
Sinh hoạt :
Cái ăn cũng không giống số đông. Nhân vật người cháu kể rằng: bàn ăn của nhà bà Hiền trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, từng người ngồi đúng chỗ quy định….
Gia đình bà Hiền thỉnh thoảng tổ chức một cuộc họp mặt thân mật gồm những bạn văn chương, trí thức để chia sẻ buồn vui, nỗi niềm trước cuộc đời.
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
a) Trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
Khi nghe chồng có ý định mở hiệu in, bà không đồng ý vì : “Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất phải có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à?”.
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
a) Trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Mặc dù có “bộ mặt rất tư sản, cách sống rất tư sản”, nhưng bà Hiền không phải học tập, cải tạo vì bà “không bóc lột ai cả”.
- Bà Hiền cho người giúp việc về quê lao động, mở cửa hàng bán đồ lưu niệm và tự tay làm ra sản phẩm. Tác giả có nhận xét là “hoa làm rất đẹp, bán rất đắt”, nhưng “chỉ có một mình cô làm, các em thì chạy mua vật liệu”.
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
a) Trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trước tình hình xã hội miền Bắc bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh sau kháng chiến chống Pháp, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhiều bề bộn, nhiều bất cập, bà nhận xét: “Vui hơn nhiều, nói cũng hơi nhiều…chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá…” .
Thái độ ứng xử nhằm “thích ứng” của bà Hiền cũng được diễn tả một cách rõ ràng và táo bạo : “Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn.”
Nhân vật bà Hiền
2. Trong quan hệ với đời sống xã hội :
b) Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ :
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, trước việc người con lớn xin tình nguyện tòng quân, khi người cháu hỏi : “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” , bà đã nói ra một sự thật: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng.”
Người con trai thứ hai hừng hực khí thế thanh niên thời đại đòi lên đường, bà cũng có một cách ứng xử của một người mẹ hiểu rõ tâm tư thế hệ con cháu: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.
Nhân vật bà Hiền
3. Trong quan hệ với môi trường tự nhiên :
Để đón ngày Tết, bà sắp xếp lại phòng khách và rất tỉ mỉ “lau đánh một cái bát thủy tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nổi bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt thật đẹp”. Bà đang chuẩn bị đón chào tân xuân theo một nhã thú rất phổ biến hình thành từ xa xưa truyền đến ngày nay chỉ riêng người Hà Nội mới có.
Nhân vật bà Hiền
3. Trong quan hệ với môi trường tự nhiên :
Nghe những lời bình luận của người cháu về người Hà Nội hiện nay, bà Hiền “không bình luận một lời nào”, chỉ lẳng lặng nói về những dự cảm của mình, về câu chuyện cây si cổ thụ đền Ngọc Sơn. Bà nhận xét: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”; đồng thời bà cũng đã bộc lộ một niềm tin vào Hà Nội, vì theo bà thì thời nào Hà Nội “cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi” .
Nhân vật bà Hiền
Không thuộc kiểu người xuất chúng, bà Hiền là một người Hà Nội bình thường nhưng rất đậm cốt cách Hà Nội. Phẩm chất bền vững thuộc về đạo lí làm người muôn đời chính là cơ sở giúp bà Hiền có thể sống tốt, sống đẹp ở mọi thời, trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội, dù thời cuộc có lúc thăng trầm
Đặt vào bối cảnh đầy biến động của lịch sử, người phụ nữ ấy vẫn giữ nếp nhà , giữ vẹn cốt cách người Hà Nội. Cùng với thời gian, sự lịch lãm Hà Thành dường như là tích tụ tinh hoa nơi con người này.
Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó.
Nhận xét :
Những nét nghệ thuật đặc sắc
Một người Hà Nội rất gần với tùy bút, không có độ căng của những sự kiện , biến cố mà chủ yếu hấp dẫn người đọc bởi mạch cảm xúc, dòng suy tưởng của cái tôi tác giả.
Giọng điệu trần thuật rất trải đời, vừa tự nhiên, dân dã vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí, vừa đậm tính đa thanh.
Xây dựng nhân vật : tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” với các nhân vật khác cũng là cách để khám phá, phát hiện tính cách các nhân vật ; ngôn ngữ các nhân vật cũng góp phần khắc hoạ sâu sắc tính cách của từng người; khám phá con người từ góc nhìn văn hóa , nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và tiếp nối thế hệ
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Huỳnh Vĩnh Lộc
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)