Tuần 22. Tràng giang

Chia sẻ bởi Trịnh Thị Hà Giang | Ngày 10/05/2019 | 25

Chia sẻ tài liệu: Tuần 22. Tràng giang thuộc Ngữ văn 11

Nội dung tài liệu:

Tràng giang
Huy Cận
1. Tác giả (1919-2005)
Tên khai sinh: Cù Huy Cận.
- Quê: Hương Sơn, Hà Tĩnh.
- Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo.
I. Tìm hiểu chung
Trước Cách mạng tháng Tám: là nhà thơ mới tiêu biểu với hồn thơ cô đơn, ảo nảo vào bậc nhất.
Cách mạng tháng Tám đã thổi vào hồn thơ Huy Cận sinh lực mới: ông trở thành nhà thơ cách mạng. Thơ ông dạt dào niềm vui của cuộc sống mới.
Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
2. Tác phẩm
In trong “Lửa thiêng” (1940).
Được gợi cảm hứng từ buổi chiều thu năm 1939, khi nhà thơ đứng ở bờ nam bến Chèm- sông Hồng nhìn cảnh dòng sông mênh mang sóng nước.
           Một chiều thu 1939, tôi đi dạo trên bờ sông Cái (sông Hồng), bằng xe đạp, có đoạn dắt xe đi bộ, thấy buổi chiều trên đê và trên sông đẹp quá: Nắng chiều đã nhạt, mây đùn phía núi xa và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần gũi, nửa như xa vời quạnh hiu. Tôi dừng ở quãng bến Chèm (bây giờ là chân cầu Thăng Long) và vang lên trong tâm tưởng mấy câu lục bát:
       Tràng giang sóng gợn mênh mông
Thuyền trôi xuôi mái, nước song song buồn
      Rêu trôi luồng lại nối luồng
 Về đâu bèo dạt, mây lồng núi xa
Huy Cận nói về bài thơ Tràng giang
Tôi còn định làm tiếp bài thơ bằng lục bát và đặt tên bài là Chiều trên sông...Nhưng đạp xe về nhà ở số 40 Hàng Than) lại vang trong đầu nhạc điệu của thơ bảy chữ, âm hưởng Đường luật như quyến rũ tai tôi, cổ họng tôi và tôi liền chuyển mấy câu đầu sang thể bảy âm, bắt được ngay hai câu đầu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
               
1. Nhan đề và lời đề từ
“Tràng”: dài
“giang”: sông
a. Nhan đề “Tràng giang”
II. ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN
Sông dài
- Láy vần “ang”
gợi một con sông rộng.
gợi âm hưởng vang xa, lan toả.
b. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
=> định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng giang
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
2. Khổ 1
Bức tranh sông nước mênh mang, bất tận.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
2. Khổ 1
- Hình ảnh “sóng gợn”+ từ láy “điệp điệp” => những vòng sóng liên tiếp gối nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời.
- Cụm từ “buồn điệp điệp” gợi nỗi buồn triền miên không dứt trong lòng người.
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
- Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái”
gợi sự trôi nổi, phó mặc.
- Nhịp ngắt 2/2/3 với hai hình ảnh “thuyền về/nước lại” vận động trái chiều.
diễn tả trạng thái chia li, tan tác, để lại mối sầu trăm ngả lan toả khắp đất trời.
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Bản thảo
- “Một cánh bèo trôi đã lạc dòng”.
“Một chút bèo đơn lạnh giữa dòng”.
- “Củi một cành khô lạc giữa dòng”.
Câu thơ viết lại, nói như tác giả “vừa tự nhiên, vừa hàm ý sâu” hơn nhiều.
Củi một cành khô lạc mấy dòng
- Hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản dị nhưng giàu sức biểu hiện.
Một cành củi khô bập bềnh vô định trên sóng nước tràng giang gợi nên cảm giác về sự nhỏ bé, lạc loài.
Biểu tượng cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ trước cái vô thuỷ vô chung của vũ trụ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
2. Khổ 1
Khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển, vừa hiện đại:
Vẻ đẹp cổ điển: hình ảnh thơ, ở cấu trúc đăng đối
giữa các câu thơ:
buồn điệp điệp/ nước song song (BTT/ TBB)
thuyền về/ nước lại (BB/TT)
sầu trăm ngả/lạc mấy dòng (BBT/TTB)
Hiện đại ở hình ảnh hiện thực đến chi tiết: “củi một
cành khô…”
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
2. Khổ 1
bức tranh sông nước tràng giang mênh mông
bát ngát, các cảnh vật ở trong thế chia lìa, tan tác,
nhỏ nhoi, thấm đượm nỗi buồn mênh mang
trong lòng người.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
3. Khổ 2
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
- Không gian “cồn nhỏ” hoang sơ, vắng lặng (lơ thơ, đìu hiu).
- Chữ “đìu hiu” Huy Cận học được trong câu thơ của Đoàn Thị Điểm:
“Non Kì lạnh lẽo trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
(Chinh phụ ngâm)
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
đâu có (không có)
-Từ “đâu” có hai cách hiểu
đâu đó (vọng lại)
Không gian vắng lặng, cô tịch, âm thanh sự sống của con người rất xa vắng, mơ hồ.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu
- Không gian được mở ra theo nhiều chiều khác nhau:

+ Cao (trời lên)
+ Dài (sông dài)
+ Rộng (trời rộng)
- “Sâu chót vót”: cách biểu đạt mới mẻ:
+ “sâu”: gợi ấn tượng về sự thăm thẳm, hun hút đến không cùng.
+ “chót vót” khắc hoạ được chiều cao dường như vô tận.
không gian được đẩy tới vô biên.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
3. Khổ 2
Cảnh vật khiến con người trở nên bé nhỏ, có phần bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh).
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
4. Khổ 3
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
- Hình ảnh “bèo dạt…hàng nối hàng” một lần nữa tô đậm sự lênh đênh, phiêu bạt vô định ở khổ thơ đầu.
- Một loạt phủ định
“không một chuyến đò ngang”
“không cầu”
Không có sự giao hoà, sự sống thân mật, ấm cúng giữa con người với con người.
- Một loạt phủ định
“không một chuyến đò ngang”
“không cầu”
Không có sự giao hoà, sự sống thân mật, ấm cúng giữa con người với con người.
Cái tôi cô đơn, trống vắng, khát khao những dấu hiệu của sự sống, khát khao sự đồng cảm, hoà hợp giữa những con người.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ thơ hài hoà chất cổ điển và hiện đại.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
=>Những đám mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời thu, được ánh nắng chiều phản chiếu lấp lánh như những núi bạc.
- Nhà thơ học chữ “đùn” trong bản dịch “Thu hứng” của Đỗ Phủ:
“Lưng trời sóng dợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
- Trên nền trời bao la, xuất hiện một cánh chim bé nhỏ chao nghiêng như không chịu được sức nặng của bóng chiều.
=> Nghệ thuật đối lập:
Bầu trời bao la, hùng vĩ
Cánh chim nhỏ bé, đơn độc
Nhấn mạnh nỗi cô đơn trong lòng người.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Gợi nhớ đến thơ Thôi Hiệu đời Đường:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Hoàng Hạc lâu)
(“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!”)
Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê, còn Huy Cận không cần có khói sóng, tức là không có cái gợi nhớ, mà lòng vẫn “dợn dợn” nỗi nhớ nhà.
Nỗi buồn nhớ quê hương da diết, sâu sắc của nhà thơ.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
=> Nỗi buồn nhớ quê hương da diết, sâu sắc của nhà thơ.
Nỗi buồn của thế hệ thanh niên, trí thức trong những năm tháng mất nước, phải sống trong cảnh ngột ngạt, bế tắc của chế độ thuộc địa.
1. Nội dung
III.TỔNG KẾT
- Bài thơ thấm đậm nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh. Ẩn sau đó là niềm khát khao hoà hợp giữa con người với con người và một tình cảm yêu nước thầm kín mà thiết tha.Nói như Xuân Diệu, “Tràng giang” là bài thơ “ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
2. Nghệ thuật
Có sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại: thể thơ thất ngôn, hệ thống hình ảnh ước lệ, ý vị thơ Đường cùng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, phảng phất cảnh vật sông nước trên đất nước Việt Nam.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trịnh Thị Hà Giang
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)