Tuần 22. Tràng giang
Chia sẻ bởi Nguyễn Hoàng |
Ngày 10/05/2019 |
26
Chia sẻ tài liệu: Tuần 22. Tràng giang thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
Tràng Giang
Huy Cận
Huy Cận
Huy Cận
Tiểu dẫn
(1919 – 2005)
Quê ở làng Ân Phú , huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
H
U
Y
C
Ậ
N
Trước CMT8
Trước
CMT8
Sau
Giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng
Tích cực tham gia các hoạt động cách mạng ở nước ta
Huy Cận là một nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ Mới với hồn thơ ảo não…
Trước CMT8
Trình bày
Thân thể
Buồn
Buồn đêm mưa
Trông lên
Tràng giang
Đi giữa đường thơm
Xuân
Cầu khẩn
Tình tự
Hối hận
Vô đề
Chiều xưa
Đẹp xưa
Học sinh
Tựu trường
Tiễn đưa
Em về nhà
Thuyền đi
Vạn lý tình
Gánh xiếc
Dấu chân
trên đường
Thu
Hoa điệu
Nhớ hờ
Hồn xa
Trò chuyện
Giấc ngủ chiều
Ngủ chung
Song song
Cách xa
Tình mất
Chết
Nhạc sầu
Ngậm ngùi
Ê chề
Xuân ý
Bình yên
Lời dịu
Khung tình
Điệu buồn
Quanh quẩn
Chiều xuân
Mưa
Thu rừng
Áo trắng
Bi ca
Tâm sự
Hồn xuân
Mai sau
Cô đơn, sầu muộn khó hoá giải
Buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước
Hồn thơ "ảo não", bơ vơ cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời
Thơ Huy Cận thiên về suy tưởng triết lý hơn là giãi bày, bộc lộ
Nghệ Thuật
chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Pháp
kết hợp và dung hoà
cái hàm súc, sâu lắng của thơ Đường
vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại
Sau CMT8
Huy Cận rưng rưng chân thành trở về hòa nhập với cuộc sống.
Nhà thơ mở rộng tâm hồn cho cuộc sống ùa vào
Phát hiện chất thơ biểu hiện tinh vi, phong phú trong đời thường
Anh tặng em buổi sáng hôm nay
Có hoa sen nở hồ Tây trắng hồng
Tặng em trời mát như sông
Trong veo chảy giữa đôi dòng cây xanh.
(Buổi sáng hôm nay)
Tiếng thơ Huy Cận trong tập thơ “Hai bàn tay em” rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ.
Bé gọi con dế
Quen nấp đầu hồi
Dế kêu the thé
Giật mình bưởi rơi
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa tình; cảnh sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều
T
Á
C
P
Ẩ
H
M
Hoàn cảnh sáng tác: viết vào mùa thu năm 1939 khi đứng trước sông Hồng mênh mông sóng nước
Tràng giang
Hán Việt
Gợi một không gian cổ kính,trang trọng và bát ngát như trong Đường thi
“Duy kiến trường giang
thiên tế lưu”
Tràng giang
“thất ngôn trường thiên”
4 khổ thơ
1 bộ tứ bình
Một chiều thu
Tác phẩm mang âm hưởng của thơ mới với nhiều cách tân hiện đại ở phong thái và nghệ thuật , tuy nhiên hồn thơ vẫn thấm đượm mạch đập truyền thống với những tinh hoa của văn chương trung đại.
Cái tôi mạnh mẽ ở ngòi bút hiện đại của Huy Cận trong “Trường giang” đã thu mình ẩn sau thiên nhiên hùng vĩ của một vũ trụ bao la rộng lớn. “Trường giang” là mối giao tuyệt mỹ giữa vẻ đẹp cổ điển và hơi thở hiện đại trong văn học.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dại về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng Giang
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C
Đề từ
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Từ láy gợi tả nỗi lòng người đang mang một nỗi buồn vô định
trời rộng
sông dài
Cái vô biên của vũ trụ bất tận
Khi đối diện với cái vô cùng, vô tận của không gian và cái vô thuỷ, vô chung của thời gian, con người cảm nhận một cách thấm thía nỗi cô đơn, sự nhỏ nhoi của chính mình , thấy mình bơ vơ, lạc lõng
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Những vòng xoáy đang lan ra, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến vô tận tựa nỗi buồn âm thầm mà da diết, khôn nguôi.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Cảm giác những con sóng cứ nối nhau đến tận cùng trời sông nước và cùng với nó là nỗi “buồn điệp điệp”.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Con thuyền bất lực với mái chèo của mình, lênh đênh cho dòng nước cuốn đi.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Không gian như rộng ra, dàn trải theo hai tiếng “điệp điệp” rồi vươn dài theo âm điệu của “song song” để hồn thơ gợi lên cái không cùng của vũ trụ vô biên
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Xa cách, hững hờ
Mỗi sự vật gắn với một động từ, kéo hai chủ thể tách rời nhau chuyển động trái chiều
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
“Buồn” “sầu”: nỗi buồn có sự tăng cấp,
Tâm hồn thi nhân
hòa vào cảnh vật
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Đảo ngữ Cái khô của củi, cái bé nhỏ, gầy guộc của cành
Triết lý nhân sinh
sâu sắc
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Đấy là thân phận của những kiếp phù sinh bé nhỏ, nổi trôi giữa dòng đời vô định, là hiện thân của cái tôi cá nhân tự ý thức nỗi cô đơn giữa cuộc đời và trở thành tha hương trên chính quê hương mình.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Từ láy “lơ thơ”: gợi cảm giác hoang vắng, cô tịch
Từ láy “đìu hiu”: như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt
“Đâu” là “đâu rồi?”, không xác định
”tiếng làng xa”: âm thanh của ngày tàn
Không gian chìm đắm trong sự tĩnh lặng, ngột ngạt. Con người như lạc giữa cõi hư vô
“xuống” và “lên” đem lại cảm giác chuyển động rõ rệt
“chót vót”: từ láy đặc tả chiều cao nhưng được dùng để chỉ chiều sâu.
”sâu”: vừa tả được độ cao vừa gợi được tâm trạng con người Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vô cùng của vũ trụ.
“Bến cô liêu” chính là cái tôi mang nỗi “sầu vạn kỉ” của Huy Cận
Khổ thơ là hình ảnh của một “chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm” với những nỗi buồn của thế nhân…nỗi buồn của thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên bất tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hiện thân của những kiếp phù sinh bé nhỏ sống phụ thuộc vào ngoại vật và cuộc đời chúng cứ lửng lờ trôi mãi trên dòng nước
Một sự vô định, mơ hồ về kiếp người…
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cấu trúc phủ định “không…không”: phủ định mọi kết nối của con người.
Cảm giác về cuộc đời vắng tình người
Từ láy “lặng lẽ”: không hình ảnh hay tiếng động, lột tả chuyển động của dòng nước khi chảy qua “bờ xanh”, “bãi vàng”
Các sự vật đặt cạnh nhau nhưng tất cả đều không có một mối dây liên hệ, không cần nhau, không tìm nhau
Tất cả gợi nên cảm giác buồn bã, hiu quạnh, trống vắng.
Thi sĩ đang khao khát một sự sống, một người tri âm tri kỉ, nhưng tất cả rồi cũng như dòng nước lửng lờ kia, trôi mãi về vô định, nỗi tuyệt vọng cũng vì thế mà khắc khoải trong lòng…
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Đường Thi
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cánh chim là biểu tượng của cái tôi nhỏ nhoi, cô độc trước cuộc đời ảm đạm. Cánh chim vốn là dấu hiệu của sự sống nhưng cái mầm sống ấy xuất hiện khi hoàng hôn đang tàn và nỗi sầu dậy khắp bầu trời.
Mối sầu của “Tràng giang” không chỉ là “nỗi sầu vạn lý” mà còn là “mối sầu vạn kỉ “
Tâm trạng và lòng yêu quê hương sâu kín của nhà thơ.Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước.
"dợn dợn" là từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Thôi Hiệu)
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cảm giác về “một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu “ (Huy Cận ) được thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kì khổ thơ nào khác. Và như thế, nỗi buồn vũ trụ càng trở nên hoàn chỉnh hơn, nỗi khắc khoải không giang càng đầy đủ hơn. Kết thúc khổ thơ, nỗi buồn đầy đủ và trọn vẹn được mở ra trên ba chiều không gian và cả chiều thời gian, khiến cho “Tràng giang” càng thêm đậm đà phong vị Đường thi, hương vị thơ cổ điển ở ngay khổ cuối
TỔNG KẾT
Nội dung:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của một cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc.
Tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực.
Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc. Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Nghệ thuật:
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ
Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới
Nghệ thuật:
Thanks for listening!
Huy Cận
Huy Cận
Huy Cận
Tiểu dẫn
(1919 – 2005)
Quê ở làng Ân Phú , huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
H
U
Y
C
Ậ
N
Trước CMT8
Trước
CMT8
Sau
Giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng
Tích cực tham gia các hoạt động cách mạng ở nước ta
Huy Cận là một nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ Mới với hồn thơ ảo não…
Trước CMT8
Trình bày
Thân thể
Buồn
Buồn đêm mưa
Trông lên
Tràng giang
Đi giữa đường thơm
Xuân
Cầu khẩn
Tình tự
Hối hận
Vô đề
Chiều xưa
Đẹp xưa
Học sinh
Tựu trường
Tiễn đưa
Em về nhà
Thuyền đi
Vạn lý tình
Gánh xiếc
Dấu chân
trên đường
Thu
Hoa điệu
Nhớ hờ
Hồn xa
Trò chuyện
Giấc ngủ chiều
Ngủ chung
Song song
Cách xa
Tình mất
Chết
Nhạc sầu
Ngậm ngùi
Ê chề
Xuân ý
Bình yên
Lời dịu
Khung tình
Điệu buồn
Quanh quẩn
Chiều xuân
Mưa
Thu rừng
Áo trắng
Bi ca
Tâm sự
Hồn xuân
Mai sau
Cô đơn, sầu muộn khó hoá giải
Buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước
Hồn thơ "ảo não", bơ vơ cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời
Thơ Huy Cận thiên về suy tưởng triết lý hơn là giãi bày, bộc lộ
Nghệ Thuật
chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Pháp
kết hợp và dung hoà
cái hàm súc, sâu lắng của thơ Đường
vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại
Sau CMT8
Huy Cận rưng rưng chân thành trở về hòa nhập với cuộc sống.
Nhà thơ mở rộng tâm hồn cho cuộc sống ùa vào
Phát hiện chất thơ biểu hiện tinh vi, phong phú trong đời thường
Anh tặng em buổi sáng hôm nay
Có hoa sen nở hồ Tây trắng hồng
Tặng em trời mát như sông
Trong veo chảy giữa đôi dòng cây xanh.
(Buổi sáng hôm nay)
Tiếng thơ Huy Cận trong tập thơ “Hai bàn tay em” rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ.
Bé gọi con dế
Quen nấp đầu hồi
Dế kêu the thé
Giật mình bưởi rơi
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa tình; cảnh sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều
T
Á
C
P
Ẩ
H
M
Hoàn cảnh sáng tác: viết vào mùa thu năm 1939 khi đứng trước sông Hồng mênh mông sóng nước
Tràng giang
Hán Việt
Gợi một không gian cổ kính,trang trọng và bát ngát như trong Đường thi
“Duy kiến trường giang
thiên tế lưu”
Tràng giang
“thất ngôn trường thiên”
4 khổ thơ
1 bộ tứ bình
Một chiều thu
Tác phẩm mang âm hưởng của thơ mới với nhiều cách tân hiện đại ở phong thái và nghệ thuật , tuy nhiên hồn thơ vẫn thấm đượm mạch đập truyền thống với những tinh hoa của văn chương trung đại.
Cái tôi mạnh mẽ ở ngòi bút hiện đại của Huy Cận trong “Trường giang” đã thu mình ẩn sau thiên nhiên hùng vĩ của một vũ trụ bao la rộng lớn. “Trường giang” là mối giao tuyệt mỹ giữa vẻ đẹp cổ điển và hơi thở hiện đại trong văn học.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dại về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng Giang
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C
Đề từ
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Từ láy gợi tả nỗi lòng người đang mang một nỗi buồn vô định
trời rộng
sông dài
Cái vô biên của vũ trụ bất tận
Khi đối diện với cái vô cùng, vô tận của không gian và cái vô thuỷ, vô chung của thời gian, con người cảm nhận một cách thấm thía nỗi cô đơn, sự nhỏ nhoi của chính mình , thấy mình bơ vơ, lạc lõng
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Những vòng xoáy đang lan ra, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến vô tận tựa nỗi buồn âm thầm mà da diết, khôn nguôi.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Cảm giác những con sóng cứ nối nhau đến tận cùng trời sông nước và cùng với nó là nỗi “buồn điệp điệp”.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Con thuyền bất lực với mái chèo của mình, lênh đênh cho dòng nước cuốn đi.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả:
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Không gian như rộng ra, dàn trải theo hai tiếng “điệp điệp” rồi vươn dài theo âm điệu của “song song” để hồn thơ gợi lên cái không cùng của vũ trụ vô biên
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Xa cách, hững hờ
Mỗi sự vật gắn với một động từ, kéo hai chủ thể tách rời nhau chuyển động trái chiều
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
“Buồn” “sầu”: nỗi buồn có sự tăng cấp,
Tâm hồn thi nhân
hòa vào cảnh vật
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Đảo ngữ Cái khô của củi, cái bé nhỏ, gầy guộc của cành
Triết lý nhân sinh
sâu sắc
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô, lạc mấy dòng.
Đấy là thân phận của những kiếp phù sinh bé nhỏ, nổi trôi giữa dòng đời vô định, là hiện thân của cái tôi cá nhân tự ý thức nỗi cô đơn giữa cuộc đời và trở thành tha hương trên chính quê hương mình.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Từ láy “lơ thơ”: gợi cảm giác hoang vắng, cô tịch
Từ láy “đìu hiu”: như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt
“Đâu” là “đâu rồi?”, không xác định
”tiếng làng xa”: âm thanh của ngày tàn
Không gian chìm đắm trong sự tĩnh lặng, ngột ngạt. Con người như lạc giữa cõi hư vô
“xuống” và “lên” đem lại cảm giác chuyển động rõ rệt
“chót vót”: từ láy đặc tả chiều cao nhưng được dùng để chỉ chiều sâu.
”sâu”: vừa tả được độ cao vừa gợi được tâm trạng con người Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vô cùng của vũ trụ.
“Bến cô liêu” chính là cái tôi mang nỗi “sầu vạn kỉ” của Huy Cận
Khổ thơ là hình ảnh của một “chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm” với những nỗi buồn của thế nhân…nỗi buồn của thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên bất tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hiện thân của những kiếp phù sinh bé nhỏ sống phụ thuộc vào ngoại vật và cuộc đời chúng cứ lửng lờ trôi mãi trên dòng nước
Một sự vô định, mơ hồ về kiếp người…
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cấu trúc phủ định “không…không”: phủ định mọi kết nối của con người.
Cảm giác về cuộc đời vắng tình người
Từ láy “lặng lẽ”: không hình ảnh hay tiếng động, lột tả chuyển động của dòng nước khi chảy qua “bờ xanh”, “bãi vàng”
Các sự vật đặt cạnh nhau nhưng tất cả đều không có một mối dây liên hệ, không cần nhau, không tìm nhau
Tất cả gợi nên cảm giác buồn bã, hiu quạnh, trống vắng.
Thi sĩ đang khao khát một sự sống, một người tri âm tri kỉ, nhưng tất cả rồi cũng như dòng nước lửng lờ kia, trôi mãi về vô định, nỗi tuyệt vọng cũng vì thế mà khắc khoải trong lòng…
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Đường Thi
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cánh chim là biểu tượng của cái tôi nhỏ nhoi, cô độc trước cuộc đời ảm đạm. Cánh chim vốn là dấu hiệu của sự sống nhưng cái mầm sống ấy xuất hiện khi hoàng hôn đang tàn và nỗi sầu dậy khắp bầu trời.
Mối sầu của “Tràng giang” không chỉ là “nỗi sầu vạn lý” mà còn là “mối sầu vạn kỉ “
Tâm trạng và lòng yêu quê hương sâu kín của nhà thơ.Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước.
"dợn dợn" là từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Thôi Hiệu)
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cảm giác về “một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu “ (Huy Cận ) được thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kì khổ thơ nào khác. Và như thế, nỗi buồn vũ trụ càng trở nên hoàn chỉnh hơn, nỗi khắc khoải không giang càng đầy đủ hơn. Kết thúc khổ thơ, nỗi buồn đầy đủ và trọn vẹn được mở ra trên ba chiều không gian và cả chiều thời gian, khiến cho “Tràng giang” càng thêm đậm đà phong vị Đường thi, hương vị thơ cổ điển ở ngay khổ cuối
TỔNG KẾT
Nội dung:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của một cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc.
Tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực.
Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc. Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Nghệ thuật:
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ
Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới
Nghệ thuật:
Thanks for listening!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Hoàng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)