Tuần 22. Tràng giang
Chia sẻ bởi Lê Thương |
Ngày 10/05/2019 |
39
Chia sẻ tài liệu: Tuần 22. Tràng giang thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
TRÀNG GIANG
GROUP 1
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Âm Hán Việt “tràng” là cách đọc lệch của chữ “trường” (dài), “giang” nghĩa là sông.
=>“Tràng Giang” không chỉ có ý là một con sông dài mà rộng mà còn gợi cảm giác mênh mang là vì nhờ vào việc điệp âm “ang”
Từ láy “điệp điệp” :những đợt sóng cứ dập dồn, liên tiếp xô nhau vào bờ.
Phép nhân hóa“buồn điệp điệp”: nghĩa là một nỗi buồn tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ liên tục, không ngừng.
Con thuyền xuôi mái nước song song,
“Con thuyền” là hình ảnh tả thực nhưng dưới cái nhìn của cái tôi lãng mạn thì con thuyền cũng chỉ những thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người
Điệp từ “song song” càng gợi lên nỗi buồn xa vắng:
+ Tách bật được cảnh giữa thuyền và nước,thông thường khi nhắc tới thuyền là người ta lại nghĩ tới nước như là sự thống nhất:nước chở thuyền,thuyền trang điểm cho bức tranh sông nước
+ Tạo cảm giác thuyền và nước như hai đường thằng dài tít tắp,cứ chạy mãi mà không bao giờ gặp
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Nhân hóa”sầu”+”trăm ngả”:gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả.
=> một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa tít, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút.
Động từ “lại” đối lập với động từ “về”
->Hình ảnh đối lập giữa "thuyền và nước".
Dòng sông và con thuyền vốn là một cặp hình ảnh song hành, không thể tách ròi. Nhưng khi được nhìn bằng cặp mắt của nỗi cô đơn, nỗi sầu nhân thế, dòng sông và con thuyền bỗng bị chia lìa cách biệt
Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước song song” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như những tiếng thở dài não nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ
Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia lìa vô định
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hình ảnh táo bạo hiếm thấy ”củi “: tạo một cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại còn “khô” càng mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống
Cụm từ “lạc mấy dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành củi khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước.
nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô” nhấn mạnh cái hình thân phận nhỏ nhoi , thân phận của cái tôi cô đơn bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định.
Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ chuẩn mĩ trong thơ xưa cùng hình ảnh thơ hiên đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hình ảnh…Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn man mác trên sông Hồng,
Đồng thời thể hiện được được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Hình ảnh “Cồn nhỏ” làm cho dòng sông càng trở nên rộng lớn
Nghệ thuật đảo ngữ “Lơ thơ cồn nhỏ” kết hợp với từ láy”lơ thơ”: nói lên sự rời rạc, thưa thớt của những cồn đất
Hình ảnh gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Ở nơi đó có gió nhưng nó yếu ớt, đìu hiu như không có
Dùng chuyển động đó nhà thơ muốn nhấn mạnh vào cái tĩnh lặng dường như tuyệt đối của không gian sông nước.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Câu hỏi tu từ”đâu” :bật lên như một câu nghi vấn đầy hoang mang, vừa như một câu cảm thán tiếc nuối đâu còn nữa
Nhà thơ chỉ mong mỏi một âm thanh của sự sống, nhưng ngay cả đến tiếng vãn chợ cũng thật mơ hồ, như có như không, sự cô độc lại như thêm chồng chất.
Hình ảnh “làng xa vãn chợ chiều “cũng gợi lên một cảm giác buồn bởi chỉ có cảnh vật với đất trời mênh mông xa vắng không có một chút gì thuộc về sự sống của con người.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Động từ ngược hướng `lên` và `xuống` đem lại một cảm giác chuyển động rõ rệt, mở rộng không gian, và cả sự chia lìa, bởi giờ đây nắng và trời lại tách bạch ra với nhau.
Cách dùng từ độc đáo :không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”. “Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu” không chỉ diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy.
Đó chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ. Cách sử dụng từ hết sức mới lạ bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
cặp từ trái nghĩa : dài - rộng
Mà giao điểm của những chiều không gian”lên-xuống”,“ dài -rông”,””chỉ là một “bến cô liêu” trơ trọi, hoang vắng, dấu vết của cuộc sống con người như tan biến giữa”sông dài, trời rộng”.
Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng
=>Trước không gian ấy con người không thể không cảm thấy mình nhỏ bé, lạc lõng trước không gian mênh mông rộng lớn của đất trời. Và nỗi buồn, sự cô đơn trước vụ trụ rộng lớn càng thêm thấm thía hơn
Huy Cận sử dụng nhiều biệp pháp nghệ thuật: từ láy tượng hình kết hợp với đảo ngữ “lơ thơ cồn nhỏ”; từ đối lập, trái nghĩa cùng với các hình ảnh thơ quen thuộc, cách dùng từ độc đáo thể hiện đúng tinh thần thơ mới.
Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”
Tất cả chỉ để thể hiện nỗi buồn cô đơn của “cái tôi” thời thơ mới đang lạc loài, bơ vơ, vô định nơi đất khách đặc biệt khi phải đối mặt vs vũ trụ bao la
Tổng kết
Nội dung:
Hai khổ thơ cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ ngác trước những ngã rẽ của cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng lớn. Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.
Nghệ thuật
Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại:
Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.
Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là hình ảnh “cành củi khô” gây ấn tượng, cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót”.
GROUP 1
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Âm Hán Việt “tràng” là cách đọc lệch của chữ “trường” (dài), “giang” nghĩa là sông.
=>“Tràng Giang” không chỉ có ý là một con sông dài mà rộng mà còn gợi cảm giác mênh mang là vì nhờ vào việc điệp âm “ang”
Từ láy “điệp điệp” :những đợt sóng cứ dập dồn, liên tiếp xô nhau vào bờ.
Phép nhân hóa“buồn điệp điệp”: nghĩa là một nỗi buồn tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ liên tục, không ngừng.
Con thuyền xuôi mái nước song song,
“Con thuyền” là hình ảnh tả thực nhưng dưới cái nhìn của cái tôi lãng mạn thì con thuyền cũng chỉ những thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người
Điệp từ “song song” càng gợi lên nỗi buồn xa vắng:
+ Tách bật được cảnh giữa thuyền và nước,thông thường khi nhắc tới thuyền là người ta lại nghĩ tới nước như là sự thống nhất:nước chở thuyền,thuyền trang điểm cho bức tranh sông nước
+ Tạo cảm giác thuyền và nước như hai đường thằng dài tít tắp,cứ chạy mãi mà không bao giờ gặp
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Nhân hóa”sầu”+”trăm ngả”:gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả.
=> một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa tít, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút.
Động từ “lại” đối lập với động từ “về”
->Hình ảnh đối lập giữa "thuyền và nước".
Dòng sông và con thuyền vốn là một cặp hình ảnh song hành, không thể tách ròi. Nhưng khi được nhìn bằng cặp mắt của nỗi cô đơn, nỗi sầu nhân thế, dòng sông và con thuyền bỗng bị chia lìa cách biệt
Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước song song” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như những tiếng thở dài não nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ
Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia lìa vô định
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hình ảnh táo bạo hiếm thấy ”củi “: tạo một cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại còn “khô” càng mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống
Cụm từ “lạc mấy dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành củi khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước.
nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô” nhấn mạnh cái hình thân phận nhỏ nhoi , thân phận của cái tôi cô đơn bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định.
Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ chuẩn mĩ trong thơ xưa cùng hình ảnh thơ hiên đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hình ảnh…Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn man mác trên sông Hồng,
Đồng thời thể hiện được được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Hình ảnh “Cồn nhỏ” làm cho dòng sông càng trở nên rộng lớn
Nghệ thuật đảo ngữ “Lơ thơ cồn nhỏ” kết hợp với từ láy”lơ thơ”: nói lên sự rời rạc, thưa thớt của những cồn đất
Hình ảnh gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Ở nơi đó có gió nhưng nó yếu ớt, đìu hiu như không có
Dùng chuyển động đó nhà thơ muốn nhấn mạnh vào cái tĩnh lặng dường như tuyệt đối của không gian sông nước.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Câu hỏi tu từ”đâu” :bật lên như một câu nghi vấn đầy hoang mang, vừa như một câu cảm thán tiếc nuối đâu còn nữa
Nhà thơ chỉ mong mỏi một âm thanh của sự sống, nhưng ngay cả đến tiếng vãn chợ cũng thật mơ hồ, như có như không, sự cô độc lại như thêm chồng chất.
Hình ảnh “làng xa vãn chợ chiều “cũng gợi lên một cảm giác buồn bởi chỉ có cảnh vật với đất trời mênh mông xa vắng không có một chút gì thuộc về sự sống của con người.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Động từ ngược hướng `lên` và `xuống` đem lại một cảm giác chuyển động rõ rệt, mở rộng không gian, và cả sự chia lìa, bởi giờ đây nắng và trời lại tách bạch ra với nhau.
Cách dùng từ độc đáo :không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”. “Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu” không chỉ diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy.
Đó chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ. Cách sử dụng từ hết sức mới lạ bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
cặp từ trái nghĩa : dài - rộng
Mà giao điểm của những chiều không gian”lên-xuống”,“ dài -rông”,””chỉ là một “bến cô liêu” trơ trọi, hoang vắng, dấu vết của cuộc sống con người như tan biến giữa”sông dài, trời rộng”.
Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng
=>Trước không gian ấy con người không thể không cảm thấy mình nhỏ bé, lạc lõng trước không gian mênh mông rộng lớn của đất trời. Và nỗi buồn, sự cô đơn trước vụ trụ rộng lớn càng thêm thấm thía hơn
Huy Cận sử dụng nhiều biệp pháp nghệ thuật: từ láy tượng hình kết hợp với đảo ngữ “lơ thơ cồn nhỏ”; từ đối lập, trái nghĩa cùng với các hình ảnh thơ quen thuộc, cách dùng từ độc đáo thể hiện đúng tinh thần thơ mới.
Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”
Tất cả chỉ để thể hiện nỗi buồn cô đơn của “cái tôi” thời thơ mới đang lạc loài, bơ vơ, vô định nơi đất khách đặc biệt khi phải đối mặt vs vũ trụ bao la
Tổng kết
Nội dung:
Hai khổ thơ cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ ngác trước những ngã rẽ của cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng lớn. Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.
Nghệ thuật
Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại:
Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.
Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là hình ảnh “cành củi khô” gây ấn tượng, cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót”.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Thương
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)