Tuần 21. Vội vàng
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Huỳnh Như |
Ngày 10/05/2019 |
37
Chia sẻ tài liệu: Tuần 21. Vội vàng thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
Tác giả : Xuân Diệu
Tặng Vũ Đình Liên
Với "Vội vàng" nhà thơ đã xây lầu thơ giữa vẻ đẹp cuộc đời. Bài thơ hấp dẫn người đọc không chỉ bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn mang đến sự trải ngiệm mới mẻ về sự cách tân nghệ thuật độc đáo của một hồn thơ mới Xuân Diệu. Đoạn thơ mà ta cảm nhận nằm giữa bài Vội Vàng.
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trể chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió sinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải ra đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...“
Mau đi thôi! Mùa ngả chưa chiều hôm
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Xuân còn non nghĩa
là xuân sẽ
già
Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian "tuần hoàn“
nghĩa là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái
diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cử trở đi rồi trở lại
mãi mãi, chẳng hạn như Hồ Xuân Hương nói:
" Ngặt nỗi, xuân đi, xuân lại lại".Quan niệm này xuất phát từ
cái nhìn "tĩnh", lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian.
Còn đối với Xuân Diệu, ông nhìn đời bằng cái nhìn "động", với ông,
thời gian là tuyến tính, nghĩa là thời gian như 1 vòng chảy xuôi chiều, mỗi
khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Đoạn thơ sử dụng cặp từ đối lập "tới – qua" , "Non – già", và từ "xuân" lặp lại 5 lần đã cho người đọc thấy được sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi sĩ về bước đi của thời gian. Thời gian như 1 dòng chảy không nghừng nghĩ, cái ta đang có cũng chính là cái ta đang mất. Ở hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai và thi sĩ luôn lo sợ, ám ảnh về thời gian bởi: " tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới"
. Điệp ngữ " nghĩa là" lặp lại 3 lần đã làm cho mạch thơ trở
nên chặt chẽ, sâu sắc hơn thể hiện 1 quan niệm nhân sinh
tích cực của Xuân Diệu về cuộc sống. Nếu các
nhà thơ xưa lấy sinh mệnh của vũ trụ làm thước đo
cho cuộc đời thì Xuân Diệu lại lấy sinh mệnh cá thể
mình làm thước đo cho thời gian. Vì vậy: "Mà xuân
hết nghĩa là tôi cũng mất". Thậm chí Xuân Diệu
còn lấy quãng đời ngắn nhất trong sinh mệnh con người
là tuổi trẻ để làm thước đo nên giọng thơ càng trở
nên chua chát hơn. Từ "xuân" vừa là xuân của đất trời,
vừa là xuân của tuổi trẻ. Mùa xuân của thiên nhiên còn
mãi mà mùa xuân của đời người đã hết thì "tôi cũng mất". Vì vậy mà
6 câu thơ tiếp theo mang giọng thơ dỗi hờn, trách móc.
" Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời."
Dù tình yêu cuộc sống có "rộng" đến bao nhiêu thì “lượng trời vẫn cứ chật" nên tuổi trẻ
nhân gian không kéo dài thêm mãi.
Ở đây, đoạn thơ đã sử dụng 1 hệ
thống từ ngữ hình ảnh được
đặt trong thế tương phản
đối lập cao độ (rộng – chật,
xuân tuần hoàn – tuổi trẻ chẳng
hai lần, còn – chẳng còn) đễ làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối thời gian, cuộc đời.
Vũ trụ có thể vĩnh viễn,
nhưng mùa xuân của con
người chỉ có một lần. Rõ
ràng Xuân Diệu đã lấy
sinh mệnh cá thể để làm
thước đo cho thời gian.
Vì vậy khi nghĩ về tính
hạn chế của kiếp người,
Xuân Diệu đã đem đến
1 nỗi ngậm ngùi thật mới
mẻ.
" Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãiNên
bâng khâng tôi tiếc cả đất trời"Đọc hai
câu thơ ta như nghe rất rõ tiếng thở
dài bất lực của thi nhân. Và ta cũng
nghe rất rõ cái bâng khuâng nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người
đọc giờ đây cả một trời tiếc nuối.
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng hờn vì nỗi phải ra đi?
Cơn gió sinh thì thào trong lá biếc
Gió luà trong lá giờ đây không còn là những âm thanh tươi vui của thiên nhiên mà là lời thì thào về nỗi hờn giận, buồn thương vì gió phải chia tay với cây lá để bay đi. Chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng để chào xuân thì bỗng " đứt tiếng reo thi" vì phải lo sợ cho mùa xuân sắp sửa trôi qua.
Biện pháp nhân hóa trong câu thơ khắc họa rõ nét hơn nỗi buồn thương nuối tiếc không của riêng gì Xuân Diệu mà của cả vạn vật trong thiên nhiên. Vì đã nhận thức được quy luật nghiệt ngã của thời gian 1 đi không trở lại. Phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã đưa ra 1 quy định hợp lý cho mình và cả mọi người " Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân" .
" Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt"
Đây là hai câu thơ thể hiện rõ nhất cách cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn bằng cả khứu giác "mùi tháng năm" và vị giác "vị chia phôi". Mỗi khoảnh khắc giờ đây như đang vội bỏ hiện tại để trở thành quá khứ và hé mở tương lai là một chân trời chia li mất mát. Thời gian thấm đậm hương vị của sự chia lìa và trải trộng ra khắp sông núi, len lỏi đến từng cá thể.
"Chẳng bao giờ,
ôi! Chẳng bao giờ nữa..."
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Đây là 1 lời than vãn đầy nuối tiếc về sự ra đi của thời gian. Câu thơ cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng bâng khuâng, vừa luống cuống, tiếc rẽ của thi nhân. Không thể "buộc gió, tắt nắng" cũng không thể cầm, giữa được thời gian thì chỉ còn có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống. Vì vậy mà đoạn thơ cuối bắt đầu bằng lời giục giả sống vội vàng và những câu thơ cuối bài thơ đã thể hiện một phong cách sống vội vàng của Xuân Diệu, thể hiện 1 cái tôi luôn khao khát sống hết mình với mùa xuân tuổi trẻ, cuộc đời.
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả "Mau đi thôi". Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy, không thể "buộc gió", không thể "tắt nắng", cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống . Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":"Xuân xanh chưa dễ hai phen lạiThấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tìnhtrong "Vội vàng" về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ "mới nhất trong các nhà thơ mới"
Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu - đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn - “vội vàng"
Nói như Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh: "Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quanniệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống".
Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Đoạn thơ sử dụng nhiều điệp từ điệp ngữ, giọng thơ sôi nỗi nhưng không che giấu được niềm nuối tiếc xót xa vì thời gian qua đi, từ ngữ, hình ảnh thơ được đặt trong thế đối lập, tưởng phản cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa và mang đậm dấu ấn của Xuân Diệu.
Nghệ Thuật
Cám ơn cô và các bạn đã lắng nghe !!!
Tặng Vũ Đình Liên
Với "Vội vàng" nhà thơ đã xây lầu thơ giữa vẻ đẹp cuộc đời. Bài thơ hấp dẫn người đọc không chỉ bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn mang đến sự trải ngiệm mới mẻ về sự cách tân nghệ thuật độc đáo của một hồn thơ mới Xuân Diệu. Đoạn thơ mà ta cảm nhận nằm giữa bài Vội Vàng.
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trể chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió sinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải ra đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...“
Mau đi thôi! Mùa ngả chưa chiều hôm
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Xuân còn non nghĩa
là xuân sẽ
già
Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian "tuần hoàn“
nghĩa là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái
diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cử trở đi rồi trở lại
mãi mãi, chẳng hạn như Hồ Xuân Hương nói:
" Ngặt nỗi, xuân đi, xuân lại lại".Quan niệm này xuất phát từ
cái nhìn "tĩnh", lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian.
Còn đối với Xuân Diệu, ông nhìn đời bằng cái nhìn "động", với ông,
thời gian là tuyến tính, nghĩa là thời gian như 1 vòng chảy xuôi chiều, mỗi
khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Đoạn thơ sử dụng cặp từ đối lập "tới – qua" , "Non – già", và từ "xuân" lặp lại 5 lần đã cho người đọc thấy được sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi sĩ về bước đi của thời gian. Thời gian như 1 dòng chảy không nghừng nghĩ, cái ta đang có cũng chính là cái ta đang mất. Ở hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai và thi sĩ luôn lo sợ, ám ảnh về thời gian bởi: " tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới"
. Điệp ngữ " nghĩa là" lặp lại 3 lần đã làm cho mạch thơ trở
nên chặt chẽ, sâu sắc hơn thể hiện 1 quan niệm nhân sinh
tích cực của Xuân Diệu về cuộc sống. Nếu các
nhà thơ xưa lấy sinh mệnh của vũ trụ làm thước đo
cho cuộc đời thì Xuân Diệu lại lấy sinh mệnh cá thể
mình làm thước đo cho thời gian. Vì vậy: "Mà xuân
hết nghĩa là tôi cũng mất". Thậm chí Xuân Diệu
còn lấy quãng đời ngắn nhất trong sinh mệnh con người
là tuổi trẻ để làm thước đo nên giọng thơ càng trở
nên chua chát hơn. Từ "xuân" vừa là xuân của đất trời,
vừa là xuân của tuổi trẻ. Mùa xuân của thiên nhiên còn
mãi mà mùa xuân của đời người đã hết thì "tôi cũng mất". Vì vậy mà
6 câu thơ tiếp theo mang giọng thơ dỗi hờn, trách móc.
" Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời."
Dù tình yêu cuộc sống có "rộng" đến bao nhiêu thì “lượng trời vẫn cứ chật" nên tuổi trẻ
nhân gian không kéo dài thêm mãi.
Ở đây, đoạn thơ đã sử dụng 1 hệ
thống từ ngữ hình ảnh được
đặt trong thế tương phản
đối lập cao độ (rộng – chật,
xuân tuần hoàn – tuổi trẻ chẳng
hai lần, còn – chẳng còn) đễ làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối thời gian, cuộc đời.
Vũ trụ có thể vĩnh viễn,
nhưng mùa xuân của con
người chỉ có một lần. Rõ
ràng Xuân Diệu đã lấy
sinh mệnh cá thể để làm
thước đo cho thời gian.
Vì vậy khi nghĩ về tính
hạn chế của kiếp người,
Xuân Diệu đã đem đến
1 nỗi ngậm ngùi thật mới
mẻ.
" Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãiNên
bâng khâng tôi tiếc cả đất trời"Đọc hai
câu thơ ta như nghe rất rõ tiếng thở
dài bất lực của thi nhân. Và ta cũng
nghe rất rõ cái bâng khuâng nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người
đọc giờ đây cả một trời tiếc nuối.
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng hờn vì nỗi phải ra đi?
Cơn gió sinh thì thào trong lá biếc
Gió luà trong lá giờ đây không còn là những âm thanh tươi vui của thiên nhiên mà là lời thì thào về nỗi hờn giận, buồn thương vì gió phải chia tay với cây lá để bay đi. Chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng để chào xuân thì bỗng " đứt tiếng reo thi" vì phải lo sợ cho mùa xuân sắp sửa trôi qua.
Biện pháp nhân hóa trong câu thơ khắc họa rõ nét hơn nỗi buồn thương nuối tiếc không của riêng gì Xuân Diệu mà của cả vạn vật trong thiên nhiên. Vì đã nhận thức được quy luật nghiệt ngã của thời gian 1 đi không trở lại. Phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã đưa ra 1 quy định hợp lý cho mình và cả mọi người " Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân" .
" Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt"
Đây là hai câu thơ thể hiện rõ nhất cách cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn bằng cả khứu giác "mùi tháng năm" và vị giác "vị chia phôi". Mỗi khoảnh khắc giờ đây như đang vội bỏ hiện tại để trở thành quá khứ và hé mở tương lai là một chân trời chia li mất mát. Thời gian thấm đậm hương vị của sự chia lìa và trải trộng ra khắp sông núi, len lỏi đến từng cá thể.
"Chẳng bao giờ,
ôi! Chẳng bao giờ nữa..."
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Đây là 1 lời than vãn đầy nuối tiếc về sự ra đi của thời gian. Câu thơ cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng bâng khuâng, vừa luống cuống, tiếc rẽ của thi nhân. Không thể "buộc gió, tắt nắng" cũng không thể cầm, giữa được thời gian thì chỉ còn có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống. Vì vậy mà đoạn thơ cuối bắt đầu bằng lời giục giả sống vội vàng và những câu thơ cuối bài thơ đã thể hiện một phong cách sống vội vàng của Xuân Diệu, thể hiện 1 cái tôi luôn khao khát sống hết mình với mùa xuân tuổi trẻ, cuộc đời.
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả "Mau đi thôi". Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy, không thể "buộc gió", không thể "tắt nắng", cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống . Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":"Xuân xanh chưa dễ hai phen lạiThấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tìnhtrong "Vội vàng" về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ "mới nhất trong các nhà thơ mới"
Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu - đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn - “vội vàng"
Nói như Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh: "Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quanniệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống".
Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Đoạn thơ sử dụng nhiều điệp từ điệp ngữ, giọng thơ sôi nỗi nhưng không che giấu được niềm nuối tiếc xót xa vì thời gian qua đi, từ ngữ, hình ảnh thơ được đặt trong thế đối lập, tưởng phản cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa và mang đậm dấu ấn của Xuân Diệu.
Nghệ Thuật
Cám ơn cô và các bạn đã lắng nghe !!!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Huỳnh Như
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)