Tuần 21. Vợ nhặt
Chia sẻ bởi Nguyễn Phạm Kim Phượng |
Ngày 09/05/2019 |
33
Chia sẻ tài liệu: Tuần 21. Vợ nhặt thuộc Ngữ văn 12
Nội dung tài liệu:
Văn bản:
KIM LÂN
VỢ NHẶT
TÌM HIỂU CHUNG:
1.TÁC GIẢ:
Kim Lân (1920-2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Quê ông ở huyên Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học rồi phải đi làm.
Kim Lân bắt đầu sự nghiệp viết văn năm 21 tuổi với những câu chuyện mang tính chất tự truyện như: Đứa con người vợ lẻ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa,... Trong những chuyện này Kim Lân đã thể hiện được khá sắc sảo không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn và cuộc sống lam lũ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.
Kim Lân được dư luận đặc biệt chú ý khi ông đi vào những mảng đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê…
Sau CMT8, Kim Lân tiếp tục làm báo, chuyên viết truyện ngắn về đề tài làng quê Việt Nam- mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc.
Năm 2001, ông được trao tăng giải thưởng Nhã Nước về văn học nghệ thuật.
Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí(1962)
2.Tác phẩm:
a.Xuất xứ:
+Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí(1962)
+Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám 1945. Truyện được khơi nguồn cảm xúc từ nạn đói khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.
b.Bố cục:
-Đoạn 1 : Tràng đưa người vợ nhặt về nhà
-Đoạn 2: Kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng
-Đoạn 3: Tình thương của người mẹ già nghèo khó đối với đôi vợ chồng mới.
-Đoạn 4: Lòng tin về sự đổi đời trong tương lai
c.Tóm tắt:
Tràng là một thanh niên nghèo ở xóm ngụ cư với mẹ già,làm nghề kéo xe thuê.
Trong nạn đói, một lần kéo thóc lên tỉnh, anh gặp một người con gái ngồi lượm thóc ở nhà kho. Qua vài câu đưa đẩy, họ quen nhau.Thời gian sau anh gặp lại cô gái nhưng đói rách tả tơi thảm thương. Tràng đãi cô ta một bữa bốn bát bánh đúc và chỉ một câu nói đùa của Tràng mà cô sẵn sàng theo anh về làm vợ.
Tràng đưa vợ về nhà trong sự ngỡ ngàng của dân xóm ngụ cư, cũng như sự buồn tủi của bà cụ Tứ, mẹ Tràng. Nhưng khi hiểu ra, thương xót cho hoàn cảnh của mình, của Tràng và cả người đàn bà ấy, bà đã vui vẻ chấp nhận con dâu mới.
Đêm tân hôn của Tràng diễn ra trong không khí tái tê của nạn đói. Hôm sau, căn nhà thay đổi hẳn dưới bàn tay quét dọn của hai người đàn bà. Riêng Tràng, anh cảm thấy mình “nên người”, thấy gắn bó và có trách nhiệm hơn với gia đình.
Bữa cơm ngày cưới có cả tiếng cười và cũng có cả sự hiện diện của nạn đói qua niêu cháo lõng bõng và nồi “chè khoán”,miếng cám chát đắng nhưng họ cùng hướng về cuộc sống đổi mới. Trong óc Tràng hiện lên đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ phấp phới.
d. Ý nghĩa nhan đề:
Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nhặt- là hành động đi với những thứ không ra gì, không được coi trọng, giá trị nhỏ bé, thấp kém. Còn “vợ”- gợi ra sự trân trọng, thiêng liêng trong tình nghĩa của con người, người vợ gắn liền với tổ ấm, hạnh phúc cả đời người. Dựng vợ gả chồng là công việc lớn lao của cuộc đời con người. Hai từ Vợ nhặt đi cạnh nhau gợi ra thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm cái rác, có thể nhặt nhạnh ở bất kì đâu, bất kì lúc nào.
Người nhặt được vợ ở đây là Tràng, người ta thì cưới xin hẳn hoi, còn Tràng lại nhặt được vợ. Điều đó gợi ra sự khốn cùng của thân phận và hoàn cảnh sống của con người.
Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945. vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc, khát vọng xây tổ ấm, sức mạnh vươn tới cuộc sống, niềm tin của con người trong cảnh sống khốn cùng.
e. Tình huống đặc sắc của truyện Vợ nhặt:
-Tràng là nhân vật có ngoại hình xấu, còn dở người. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia cảnh Tràng rất ái ngại. Nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn đeo bám. Trong lúc không một ai nghĩ đến chuyện vợ con ( kể cả Tràng), thì anh ta lại đột nhiên có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng “nhặt được vợ” là nhặt thêm một miệng ăn, là nhặt thêm tai học cho mình, đẩy mình gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một tình huống éo le, là một nghịch cảnh vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.
- Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ “ biết có nuôi nỏi nhau sống qua được cái thì này không”, cùng nín lặng.
- Bà cụ tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi cúi đầu nín lặng với nỗi lo rất chung mà mà cũng rất riêng “ Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”.
- Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ. Thậm chí sáng hôm sau, Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
=> Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí.
f.Chủ đề:
Truyện qua việc xây dựng tình huống đặc biệt-Tràng nhặt được vợ trong cơn đói kém đã thể hiện tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn hướng về sự sống và khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1.Bức tranh hiện thực ngày đói ở xóm ngụ cư:
- Bối cảnh lịch sử có thật: nạn đói 1945, cướp đi 1/10 dân số của Việt Nam.
-Tác phẩm hoàn thành khá lâu sau sự kiện lịch sử này nhưng cảm quan về cái đói vẫn ngấm trong từng chữ, ám ảnh cái nhìn làng quê của nhà văn.
Không gian làng quê Việt Nam ngày đói quay quắt, xơ xác, tiêu điều
- Cái đói “tràn đến”: Sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, một cuồng phong, càn quét mọi sinh linh.
- Thời gian: chiều “chạng vạng”
- Không gian: Con đường vì cái đói mà “ khẳng khiu”.
- Con người:
+ Trẻ con: ủ rũ, không buồn nhúc nhích.
+ Người sống: Xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma.
+ Người chết: “như ngả rạ”, ba, bốn cái thây nằm cỏng queo bên đường”
Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa.
+ Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” > “sứ giả” của cái chết, cõi âm > gợi ám ảnh rợn lạnh, âm khí.
+ Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người.
Kim Lân sử dụng bút pháp tả thực kết hợp với nghệ thuật so sánh để tái hiên một cách cụ thể bối cảnh của câu chuyện: đó là một khung cảnh thê lương, ảm đạm và tang tóc. Sự sống và cái chết không có ranh giới, trần gian mấp mé bờ vực của âm phủ, cõi âm tràn vào cõi dương.
2. Vẻ đẹp tình người và niềm tin vào tương lai của những người nghèo đói:
a.Nhân vật Tràng
Lai lịch, ngoại hình:
- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Nê họ bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
- Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.
Tính cách:
+Tràng là người vô tư, nông cạn.
+Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.
+Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhậ đưa về nhà để thành… vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!
+ Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.
+Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.
+Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.
+Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.
+Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới....
Số phận:
- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước CMT8. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.
- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
b.Nhân vật bà cụ Tứ:
Bà cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình; con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ.
Khi trông thấy người đàn bà ở trong nhà với con mình, bà cụ Tứ vô cùng ngạc nhiên: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ? (…) Sao lại chào mình bằng u (…) Ai thế nhỉ? (…) Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”.
Trước hết, nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình cụ Tứ thấy tủi thân, tủi phận. Rồi cụ thương con đẻ, thương đến cả con dâu. Cụ biết duyên cớ vì đâu người ta phải theo con mình:“Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”, và cụ nói với vợ chồng Tràng “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là niềm vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo vì đúng lúc đói khát, chết chóc này, liệu lấy gì mà nuôi nhau. Tuy vậy, dẫu sao niềm vui vẫn nhiều hơn. Bà lão “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăn xắn thu dọn quét tước nhà cửa”.
Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”.
Nhưng “nghĩ ngợi mãi”, “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết chóc đang bủa vây xung quanh.
Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim Lân. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình.
c.Nhân vật người Vợ nhặt:
Lai lịch, ngoại hình
- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi.
- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
Tính cách
Khi mới gặp Tràng
+Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”, thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
+Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn!
Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+Thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không.
+Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ níu cả vào chân kia. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người.
+ Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
+ Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Số phận
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng.
- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người “Vợ nhặt”
Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
III. NGHỆ THUẬT VÀ GIÁ TRỊ
a) Nghệ thuật:
Chính sự khác nhau trong 3 nhân vật đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.
Vợ nhặt có ý nghĩa sâu sắc trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm :trong hoàn cảnh đói nghèo, giá trị hạnh phúc của con người thật rẻ rúng và tội nghiệp.
Cách xây dựng tình huống truyện mới lạ, độc đáo
Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, dở hơi lấy được vợ giữa ngày đói bằng cách nhặt về và họ sống hạnh phúc Một cuộc hôn nhân bé mọn giữa thảm họa của dân tộc.
Ngôn ngữ kê chuyện dân dã, mộc mạc phù hợp với đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân lao động.
b) Giá trị hiện thực:
- Tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
- Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
- Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn.
c) Giá trị nhân đạo:
- Đề cao tình người, lòng nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc.
- Đặc biệt, sự cưu mang đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt lên cái chết.
VI. TỔNG KẾT
Vợ nhặt là một chứng minh nghệ thuật của nhà văn Kim Lân: cái đói, cái chết không ngăn được khát vọng của con người được đến bên nhau, yêu thương nhau và hướng về trương lai. Điều ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm.
Thông điệp của Kim Lân muốn gửi đến người đọc qua tác phẩm: hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa Tác phẩm là bài ca về tình người của những người nghèo khổ” biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói, quay quắt”.
KIM LÂN
VỢ NHẶT
TÌM HIỂU CHUNG:
1.TÁC GIẢ:
Kim Lân (1920-2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Quê ông ở huyên Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học rồi phải đi làm.
Kim Lân bắt đầu sự nghiệp viết văn năm 21 tuổi với những câu chuyện mang tính chất tự truyện như: Đứa con người vợ lẻ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa,... Trong những chuyện này Kim Lân đã thể hiện được khá sắc sảo không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn và cuộc sống lam lũ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.
Kim Lân được dư luận đặc biệt chú ý khi ông đi vào những mảng đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê…
Sau CMT8, Kim Lân tiếp tục làm báo, chuyên viết truyện ngắn về đề tài làng quê Việt Nam- mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc.
Năm 2001, ông được trao tăng giải thưởng Nhã Nước về văn học nghệ thuật.
Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí(1962)
2.Tác phẩm:
a.Xuất xứ:
+Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí(1962)
+Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám 1945. Truyện được khơi nguồn cảm xúc từ nạn đói khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.
b.Bố cục:
-Đoạn 1 : Tràng đưa người vợ nhặt về nhà
-Đoạn 2: Kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng
-Đoạn 3: Tình thương của người mẹ già nghèo khó đối với đôi vợ chồng mới.
-Đoạn 4: Lòng tin về sự đổi đời trong tương lai
c.Tóm tắt:
Tràng là một thanh niên nghèo ở xóm ngụ cư với mẹ già,làm nghề kéo xe thuê.
Trong nạn đói, một lần kéo thóc lên tỉnh, anh gặp một người con gái ngồi lượm thóc ở nhà kho. Qua vài câu đưa đẩy, họ quen nhau.Thời gian sau anh gặp lại cô gái nhưng đói rách tả tơi thảm thương. Tràng đãi cô ta một bữa bốn bát bánh đúc và chỉ một câu nói đùa của Tràng mà cô sẵn sàng theo anh về làm vợ.
Tràng đưa vợ về nhà trong sự ngỡ ngàng của dân xóm ngụ cư, cũng như sự buồn tủi của bà cụ Tứ, mẹ Tràng. Nhưng khi hiểu ra, thương xót cho hoàn cảnh của mình, của Tràng và cả người đàn bà ấy, bà đã vui vẻ chấp nhận con dâu mới.
Đêm tân hôn của Tràng diễn ra trong không khí tái tê của nạn đói. Hôm sau, căn nhà thay đổi hẳn dưới bàn tay quét dọn của hai người đàn bà. Riêng Tràng, anh cảm thấy mình “nên người”, thấy gắn bó và có trách nhiệm hơn với gia đình.
Bữa cơm ngày cưới có cả tiếng cười và cũng có cả sự hiện diện của nạn đói qua niêu cháo lõng bõng và nồi “chè khoán”,miếng cám chát đắng nhưng họ cùng hướng về cuộc sống đổi mới. Trong óc Tràng hiện lên đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ phấp phới.
d. Ý nghĩa nhan đề:
Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nhặt- là hành động đi với những thứ không ra gì, không được coi trọng, giá trị nhỏ bé, thấp kém. Còn “vợ”- gợi ra sự trân trọng, thiêng liêng trong tình nghĩa của con người, người vợ gắn liền với tổ ấm, hạnh phúc cả đời người. Dựng vợ gả chồng là công việc lớn lao của cuộc đời con người. Hai từ Vợ nhặt đi cạnh nhau gợi ra thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm cái rác, có thể nhặt nhạnh ở bất kì đâu, bất kì lúc nào.
Người nhặt được vợ ở đây là Tràng, người ta thì cưới xin hẳn hoi, còn Tràng lại nhặt được vợ. Điều đó gợi ra sự khốn cùng của thân phận và hoàn cảnh sống của con người.
Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945. vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc, khát vọng xây tổ ấm, sức mạnh vươn tới cuộc sống, niềm tin của con người trong cảnh sống khốn cùng.
e. Tình huống đặc sắc của truyện Vợ nhặt:
-Tràng là nhân vật có ngoại hình xấu, còn dở người. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia cảnh Tràng rất ái ngại. Nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn đeo bám. Trong lúc không một ai nghĩ đến chuyện vợ con ( kể cả Tràng), thì anh ta lại đột nhiên có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng “nhặt được vợ” là nhặt thêm một miệng ăn, là nhặt thêm tai học cho mình, đẩy mình gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một tình huống éo le, là một nghịch cảnh vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.
- Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ “ biết có nuôi nỏi nhau sống qua được cái thì này không”, cùng nín lặng.
- Bà cụ tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi cúi đầu nín lặng với nỗi lo rất chung mà mà cũng rất riêng “ Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”.
- Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ. Thậm chí sáng hôm sau, Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
=> Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí.
f.Chủ đề:
Truyện qua việc xây dựng tình huống đặc biệt-Tràng nhặt được vợ trong cơn đói kém đã thể hiện tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn hướng về sự sống và khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1.Bức tranh hiện thực ngày đói ở xóm ngụ cư:
- Bối cảnh lịch sử có thật: nạn đói 1945, cướp đi 1/10 dân số của Việt Nam.
-Tác phẩm hoàn thành khá lâu sau sự kiện lịch sử này nhưng cảm quan về cái đói vẫn ngấm trong từng chữ, ám ảnh cái nhìn làng quê của nhà văn.
Không gian làng quê Việt Nam ngày đói quay quắt, xơ xác, tiêu điều
- Cái đói “tràn đến”: Sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, một cuồng phong, càn quét mọi sinh linh.
- Thời gian: chiều “chạng vạng”
- Không gian: Con đường vì cái đói mà “ khẳng khiu”.
- Con người:
+ Trẻ con: ủ rũ, không buồn nhúc nhích.
+ Người sống: Xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma.
+ Người chết: “như ngả rạ”, ba, bốn cái thây nằm cỏng queo bên đường”
Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa.
+ Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” > “sứ giả” của cái chết, cõi âm > gợi ám ảnh rợn lạnh, âm khí.
+ Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người.
Kim Lân sử dụng bút pháp tả thực kết hợp với nghệ thuật so sánh để tái hiên một cách cụ thể bối cảnh của câu chuyện: đó là một khung cảnh thê lương, ảm đạm và tang tóc. Sự sống và cái chết không có ranh giới, trần gian mấp mé bờ vực của âm phủ, cõi âm tràn vào cõi dương.
2. Vẻ đẹp tình người và niềm tin vào tương lai của những người nghèo đói:
a.Nhân vật Tràng
Lai lịch, ngoại hình:
- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Nê họ bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
- Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.
Tính cách:
+Tràng là người vô tư, nông cạn.
+Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.
+Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhậ đưa về nhà để thành… vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!
+ Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.
+Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.
+Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.
+Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.
+Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới....
Số phận:
- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước CMT8. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.
- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
b.Nhân vật bà cụ Tứ:
Bà cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình; con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ.
Khi trông thấy người đàn bà ở trong nhà với con mình, bà cụ Tứ vô cùng ngạc nhiên: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ? (…) Sao lại chào mình bằng u (…) Ai thế nhỉ? (…) Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”.
Trước hết, nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình cụ Tứ thấy tủi thân, tủi phận. Rồi cụ thương con đẻ, thương đến cả con dâu. Cụ biết duyên cớ vì đâu người ta phải theo con mình:“Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”, và cụ nói với vợ chồng Tràng “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là niềm vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo vì đúng lúc đói khát, chết chóc này, liệu lấy gì mà nuôi nhau. Tuy vậy, dẫu sao niềm vui vẫn nhiều hơn. Bà lão “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăn xắn thu dọn quét tước nhà cửa”.
Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”.
Nhưng “nghĩ ngợi mãi”, “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết chóc đang bủa vây xung quanh.
Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim Lân. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình.
c.Nhân vật người Vợ nhặt:
Lai lịch, ngoại hình
- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi.
- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
Tính cách
Khi mới gặp Tràng
+Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”, thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
+Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn!
Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+Thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không.
+Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ níu cả vào chân kia. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người.
+ Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
+ Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Số phận
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng.
- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người “Vợ nhặt”
Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
III. NGHỆ THUẬT VÀ GIÁ TRỊ
a) Nghệ thuật:
Chính sự khác nhau trong 3 nhân vật đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.
Vợ nhặt có ý nghĩa sâu sắc trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm :trong hoàn cảnh đói nghèo, giá trị hạnh phúc của con người thật rẻ rúng và tội nghiệp.
Cách xây dựng tình huống truyện mới lạ, độc đáo
Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, dở hơi lấy được vợ giữa ngày đói bằng cách nhặt về và họ sống hạnh phúc Một cuộc hôn nhân bé mọn giữa thảm họa của dân tộc.
Ngôn ngữ kê chuyện dân dã, mộc mạc phù hợp với đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân lao động.
b) Giá trị hiện thực:
- Tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
- Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
- Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn.
c) Giá trị nhân đạo:
- Đề cao tình người, lòng nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc.
- Đặc biệt, sự cưu mang đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt lên cái chết.
VI. TỔNG KẾT
Vợ nhặt là một chứng minh nghệ thuật của nhà văn Kim Lân: cái đói, cái chết không ngăn được khát vọng của con người được đến bên nhau, yêu thương nhau và hướng về trương lai. Điều ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm.
Thông điệp của Kim Lân muốn gửi đến người đọc qua tác phẩm: hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa Tác phẩm là bài ca về tình người của những người nghèo khổ” biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói, quay quắt”.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Phạm Kim Phượng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)