Tuần 2. Tự tình (bài II)

Chia sẻ bởi Bùi Thị Hương Trà | Ngày 10/05/2019 | 43

Chia sẻ tài liệu: Tuần 2. Tự tình (bài II) thuộc Ngữ văn 11

Nội dung tài liệu:

VĂN HỌC
Hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam nói chung và trong “Tự Tình II” nói riêng
Tên thành viên
1. Phạm Yến Nhi
2. Nguyễn Lê Phương Thảo
3. Tăng Hữu Huy
4. Nguyễn Hương Giang
5. Lê Thị Phương Thùy
6. Bùi Thị Hương Trà
7. Đặng Thu Hương
8.Hà Ngọc Anh
9. Nguyễn Thị Nam Anh
10. Đỗ Quỳnh Nga
11. Nguyễn Trung Hiếu
12. Trần Đức Minh Giang
A. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
I. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ - HIỆN THÂN CỦA CÁI ĐẸP
Đất nước Việt Nam – đất nước của những câu hát ru ngọt ngào, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng…và từ trong cái nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ nữ là nguồn cảm hứng chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau.
Họ hiện lên giữa sự hài hòa giữa cái đẹp về hình thức và tâm hồn.
1. Cái đẹp hình thể
Điều đặc biệt là, các cô gái đi vào văn học giai đoạn này đều là những giai nhân tuyệt thể.
VD:
Hồ Xuân Hương còn muốn vĩnh hằng hóa sắc đẹp của người phụ nữ trong bài thơ “Đề tranh tố nữ”:
“ Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh”
Ngay cả những cô gái bình dân cũng mang vẻ đẹp thật quyến rũ. “Bánh trôi nước” của nữ nghệ sĩ Hồ Xuân Hương, hiện lên hình ảnh người con gái “vừa trắng lại vừa tròn”, một người mang vẻ bề ngoài đầy đặn, tròn trịa. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, dân dã, không chăm chút mà mộc mạc, tự nhiên nhưng không kém phần duyên dáng với làn da trắng mịn màng.
=> Đấy chính là vẻ đẹp của người con gái lao động, hay lam hay làm, đầy mạnh mẽ chốn tôn quê.
2. Cái đẹp tài năng
Sắc đẹp của nhân vật trong văn học giai đoạn này thường gắn liền với một phần phẩm chất không thể thiếu được, đó là “tài”.
Theo quan niệm của người xưa, tài gồm: “cầm, kì, thi, họa”.

VD: Có thể coi Thúy Kiều của Nguyễn Du là nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất nói trên. Tiếng đàn của nàng làm cho Kim Trọng phải “ ngơ ngẩn sầu”, làm cho Thúc Sinh “cũng tan nát lòng” và làm cho Hò Tôn Hiếu “nhăn mày, rơi châu”.
3. Cái đẹp tâm hồn
Tuy vậy, ca ngợi tài và sắc của người phụ nữ không phải là mục đích của tác giả văn học thế kỉ XVI- thế kỉ XIX. Tài và sắc chỉ là một phương diện của cái đẹp: đẹp nết. Mỗi một thể loại văn học, mỗi một tác giả văn học lại có cách biểu đạt riêng về cái đẹp của người phụ nữ.
Khi nói đến đẹp nết là ta đã đề cập tới phạm trù đạo đức. Trong văn học dân gian người ta cho rằng:
“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”
Còn Hồ Xuân Hương đã hình tượng hóa phẩm chất của người phụ nữ trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Bánh trôi nước”. Dù cuộc đời có bị vùi dập “bảy nổi ba chìm” thì “tấm lòng son” của người phụ nữ vẫn được giữ gìn trọn vẹn.
=> Đó là nét nổi bật nhất về hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI – thế kỉ XIX
Cũng như vậy, nhân vật Vũ Nương trong “Truyền kì mạn lục’ cũng được Nguyễn Du khắc họa với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp: hiếu thảo, thương chồng, thương con, thủy chung…
II. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ - HIỆN THÂN CỦA SỐ PHẬN BI THƯƠNG
Những người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong kiến thới nát cùng với bộ máy quan lại mục ruỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập cuộc đời họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu sự chèn ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt thời bấy giờ “hồng nhan bạc phận”.
1. Nạn nhân của hủ tục, lễ giáo phong kiến khắc nghiệt
a) Chế độ đa thê
- Dưới chế độ phong kiến, mọi thế lực xã hội, kể cả gia đình, đều có thể chà đạp lên thân phận người phụ nữ.
- Đúng đầu thế lực thời bấy giờ là vua chúa. Để phục vụ cho việc ăn chơi trụy lạc của bọn chúng, hàng trăm cô gái trẻ đẹp đã phải vào cung làm phi tần. Người đời có câu:
“Vua thì nhiều vợ nhất đời
Ba trăm mĩ nữ, sáu mươi phi tần”
=> Ở xã hội xưa, trai thì năm thê bảy thiếp là thường, còn người phủ nữ chỉ biết chấp nhận. Họ đâu có quyền làm chủ đời mình.
b) Chế độ nam quyền
- Đối với người phụ nữ, gia đình là tất cả, vì gia đình là tổ ấm, là chón nương thân, là nơi có thể tìm thấy sự thân thương và an ủi.
- Nhưng biết bao kiếp người phụ nữ đã gặp cảnh gia đình ngang trái, nhất là khi lấy phải một người chồng chẳng ra gì.
VD: Đau đớn thay số phận của Vũ Nương! Chỉ vì muốn con vui, bản thân vơi bớt nỗi buồn và chỉ cái bóng trên vách tường, nói với con đó là cha. Nhưng chính vì thế và nàng phải chịu một ni kịch đau lòng
=> Giá như xã hội công bằng, để lời nói của người phụ nữ có giá trị thì chuyện đáng tiếc này cũng không xảy ra.
- Cũng có một bộ phận nhỏ người phụ nữ đứng lên giành lấy quyền sống và quyền được hạnh phúc của mình.
- Tuy vậy, vì rất nhiều những lý do khá phức tạp, nữ giới cũng đang hợp tác và ủng hộ sự nắm quyền của nam giới. 
c) Chế độ đồng tiền
Còn rất nhiều kiếp người khác, như Vũ Nương, Xuân Hương, trong xã hội phong kiến phải chịu chà đạp bởi một thế lực khác. Một xã hội nhốn nháo bởi đồng tiền, một xã hội mà cán cân công lí nghiêng theo ý muốn của những kẻ có tiền, có quyền…-> trong xã hội ấy, người phụ nữ là người chịu nhiều bất công ngang trái nhất.
VD: Nỗi bất hạnh của Vũ Nương cũng vì đồng tiền mà ra. Đây vốn là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, nó không xuất phát từ tình yêu mà giống như một cuộc mua bán. TS vì mến mộ nhan sắc của Vũ Nương mà “về xin với mẹ trăm lạng vàng cưới về”.
Song có lẽ, điển hình cho chế độ này là số phận bi thương của nàng kiều khi phải bán mình chuộc cha.
Rõ ràng ở cái xã hội mà:
“Trong tay đã sẵn đồng tiền
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì”
thì thân phận người phụ nữ bị coi rẻ, bị chà đạp phũ phàng. Ma lực của đồng tiền khiến những kẻ xấu xa sẵn sàng nhúng tay vào tội ác, gây ra bao đau khổ cho người dân.
Trong cái xã hội ấy, đầu mối của mọi cái xấu xa, tàn bạo là do bọn quan lại phong kiến gây ra. Từ tên bán tơ thấp hèn nhất xã hội vì đồng tiền mà:
“Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
2. Nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa
Xã hội ngày xưa suy yếu, các cuộc nổi loạn xảy ra ở mọi nơi. Phuc vụ cho các cuộc chiến tranh phi nghiã đó, biết bao người đã ra đi không trở lại, biết bao gia đình phải li tán,,, Và đây cũng là nguyên nhân đem đến nỗi bất hạnh của người phụ nữ.
B. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG “TỰ TÌNH II”
1. Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả
Họ phải chịu nỗi buồn về thân phận, về chuyện tình duyên, về hạnh phúc gia đinh – những điều rất quan trọng và vô cùng có ý nghĩa đối với những người phụ nữ. 
2. Người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp và khao khát yêu thương
Trong bà thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh phụ nữ còn hiện lên nỗi bật với niềm khao khát yêu thương và khao khát được yêu thương mạnh mẽ. 
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Bùi Thị Hương Trà
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)