Tuần 17. Đọc thêm: Khe chim kêu (Điểu minh giản)

Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Xuân | Ngày 19/03/2024 | 9

Chia sẻ tài liệu: Tuần 17. Đọc thêm: Khe chim kêu (Điểu minh giản) thuộc Ngữ văn 10

Nội dung tài liệu:

ĐTBB: 1. HOÀNG HẠC LÂU ( Thôi Hiệu)
2.KHUÊ OÁN (Vương Xương Linh)
3. ĐIỂU MINH GIẢN (Vương Duy)
Khe chim kêu
(Điểu Minh Giản)
--Vương Duy--
Đa tài ,21 tuổi đỗ
tiến sĩ,
.Mỗi khi bãi triều về,
ông “đốt
hương ngồi một mình
, tụng niệm kinh Phật”.
-Người đời
gọi ông là “Thi Phật”.
.Tác phẩm:
Thơ ông để lại trên 400 bài: Thơ sơn thủy,điền viên (cuộc sống nông thôn yên tĩnh, con người nhàn nhã)
cái tâm thanh tịnh của đạo Phật
II.Đọc hiểu văn bản:
Nhân nhàn
Nhà thơ ngồi Thiền
Con người ngưng làm việc
Quế hoa lạc//dạ tĩnh
Đêm yên tĩnh đến độ nghe đựơc
cả tiếng hoa quế (bé li ti) rơi=đêm rất yên tĩnh
Tâm hồn người vô cùng bình an,thanh thản
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Trăng sáng khiến chim núi kinh sợ=trăng rất sáng
Trí óc con người vô cùng sáng suốt
Điểu minh giản
Ý tưởng nảy sinh
Những điều tốt đẹp sẽ đến trongcuộc sống
Vương Duy
-Nhân nhàn

-quế hoa lạc- dạ tĩnh xuân sơn không
-Nguỵệt xuất kinh sơn điểu


-Thời minh tại giản trung
Trịnh Công Sơn
-Tôi chon ngồi thật yên

-Nhìn rõ anh em, ngồi nghĩ lại mình

–Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống ? Vì đất nước cần một trái tim
LẦU HOÀNG HẠC
(Hoàng Hạc Lâu)
THÔI HIỆU
THÔI HIỆU(704-754)
1.  Xưa, Phí Văn Vỹ (hay là Vương Tử An) thành tiên cưỡi hạc đi chơi và đã đỗ ở đây.
2. Khi lầu này mới mở, có một đạo sĩ vào uống rượu, uống xong ra sân dơ tay lên trời vẫy. Một con hạc sà xuống và đạo sĩ cưỡi lên lưng con hạc bay đi trước mắt các thực khách.
3. Còn chuyện nữa là khi đạo sĩ uống rượu xong không có tiền trả ,bèn vẽ một con hạc lên trên vách  và bảo chủ nhân rằng: "Khi có khách hãy kêu hạc xuống múa". Chủ quán nghe theo và từ đó quán chật khách vào uống rượu và xem hạc  vũ. Ít lâu sau, đạo sĩ trở lại hỏi chủ quán rằng:"Tiền thâu trong bấy nhiêu ngày đã bù được tiền rượu ta thiếu bữa trước hay chưa?"  Rồi cười vẫy hạc xuống cưỡi bay đi
A.Sáu câu đầu:
- Lầu Hoàng Hạc nhắc lại 3 lần- Tâm trạng hoài cổ trong vô vọng:Hiện tại-hưũ hạn-cõi tục >qúa khứ ,vô cùng,cõi tiên

Miền quê thân thuộc nơi nào sau bóng hòang hôn ? Nhà thơ đành bất lực và buông tiếng thở dài!
Một triết lí nhân sinh: khoảng cách thời gian (người xưa,hạc vàng )và khoảng cách không gian(quê hương cuối trời )là hai điều không thể chạm đến .
Hãy sống trọn vẹn thời khắc, nơi chốn hiện tại –Đó là hạnh phúc
KHUÊ OÁN
( Nối oán của người phòng khuê)-

VƯƠNG XƯƠNG LINH
VƯƠNG XƯƠNG LINH (698-757)
.
Hai câu đầu:Khuê phụ bất tri sầu(1) ,trang điểm ,lên lầu:vì chồng chinh chiến để có công danh rạng rỡ. Một thái độ sống bình thường đáng trân trọng.
Hai câu sau:Hốt kiến (dương liễu sắc )(2)
Hối (giao phu tế phonghầu) (3)
OÁN (4)
Từ chỗ bất tri đến HỐT KIẾN:thời gian dài-> khuê phụ sống trong hạnh phúc ảo
Bất ngờ : HỐT->KIẾN ->OÁN :một khoảnh khắc , nhưng lại là BI KỊCH
Đằng sau BI KỊCH ấy là tiếng nói tố cáo chiến tranh- Nhà thơ dụng phép vẽ mây nẩy trăng (giữ được lời ít mà ý nhiều
CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC
KHI KHÔNG CÒN LY LOẠN
khi con người quý tình yêu hơn công hầu
khi con người biết chấp nhận hiện tại
khi tâm an,trí sáng,nhân nhàn
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Thị Xuân
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)