Tuần 16. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Chia sẻ bởi Nguyễn Tửu | Ngày 10/05/2019 | 34

Chia sẻ tài liệu: Tuần 16. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài thuộc Ngữ văn 11

Nội dung tài liệu:

1/ Tác giả :(1912- 1960):
( sgk).
2. Vở kịch “ Vũ Như Tô” :
- Thể loại : bi kịch lịch sử.
( Thể kịch mà XĐK được tạo dựng từ những >< không thể g.quyết được, mọi khắc phục >< đều dẫn đến “sự diệt vong những giá trị quan trọng”.
Nhân vật chính có say mê khát vọng lớn lao, có khi có những sai lầm trong hành động, có kết thúc bi thảm nhưng mang ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tính nhân văn của mỗi người).
I/ Tìm hiểu chung :
Trang bìa của vở kịch Vũ Như Tô
VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI
( Trích kịch “Vũ Như Tô”
của Nguyễn Huy)
Căn nhà quen thuộc
của Nguyễn Huy Tưởng
Bìa cuốn nhật ký
của Huy Tưởng
Bìa của vở kịch “Đêm hội Long Trì”
2. Vở kịch “ Vũ Như Tô” :
B/ Đọc - hiểu
II. Phân tích văn bản:
1. Tìm hiểu các xung đột kịch trong đoạn trích:
* Tóm tắt các sự việc chính diễn ra trong hồi V của vở kịch?
* Theo em, “loạn” và “biến”, những sự việc khủng khiếp diễn ra trong hồi V xuất phát từ đâu? Liệu có cách giải quyết nào khác “loạn” và “biến”?
+ Mâu thuẫn 1: Tình huống kịch xảy ra trong hồi V xuất phát từ ><:

-Giữa nhân dân lao động...
- Bọn hôn quân bạo chúa cùng các phe cánh của chúng.
><
II. Phân tích văn bản:
1. Tìm hiểu các xung đột kịch trong đoạn trích:
*Ngoài mâu thuẫn giữa quan quân và vua, em thấy trong hồi V còn có mâu thuẫn nào khác?
+ VNT coi CTĐ là cả phần xác và phần hồn của c/đời mình ( vì đây là công trình nghệ thuật tô điểm cho vẻ đẹp của đất nước) .
Vì nó, Ông sẵn sàng chấp nhận làm tất cả,... cho hôn quân bạo chúa; dù bị thương vẫn tiếp tục chỉ đạo công việc; trị tội những thợ bỏ trốn…
-Ngược lại trong mắt dân chúng, CTĐ là hiện thân của sự ăn chơi xa xỉ, của tội ác,...
 cha đẻ của nó –VNT- chính là kẻ thù của họ cần phải bị trị tội
 Họ vui mừng khi CT Đ chaý, VNT ra pháp trường.
*Vì sao khi bị đưa ra pháp trường, Vũ Như Tô vẫn không thể trả lời được câu hỏi : “Ta tội gì?” hay vẫn một câu “Các ngươi không hiểu được ta”.
* Tấm lòng trân trọng , hết mình bảo vệ cái tài, cái đẹp của Đan Thiềm được biểu hiện trong đoạn trích như thế nào?
+ Đan Thiềm là người khuyên Vũ Như Tô
-Tâm trạng của Đan Thiềm khi nhận ra thất bại của giấc mộng Cửu Trùng Đài:
+ Có đến 20 lần nàng thúc giục Vũ Như Tô
“ trốn đi, lánh đi, đi đi, chạy đi”.
+ Lời thúc giục vừa van xin, vừa khẩn thiết, quyết liệt:
“ Ông nghe tôi ! …. Đợi thời là thượng sách ! Đừng để phí tài trời. Trốn đi !”


+ Đến khi “có trốn cũng không được nữa”, Đan Thiềm -> van xin tha tội cho Vũ Như Tô.
+ “Ông Cả! Đài lớn tanh tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt!”.


+ “ Xin cùng ông vĩnh biệt”.

+ Kết thúc lớp kịch thứ VII:
Là tiếng kêu thảng thốt, đau đớn, nghẹn ngào, nức nở của Đan Thiềm.

+ Những đổ vỡ của một giấc mộng lớn bây giờ thật tan hoang : ông cả, Đài lớn, cái tài, cái đẹp, tất cả đền tan tành trong cơn biến loạn.
=> Mọi cố gắng giữ gìn, bảo vệ không thành. Câu nói cuối cùng của Đ.Thiềm là lời vĩnh biệt mãi mãi CTĐ – vĩnh biệt một giấc mộng lớn trong máu và nước mắt.
b.Nhân vật Vũ Như Tô :
- Học sinh trao đổi nhóm theo gợi ý :
* Trong lớp kịch thứ V, Đan Thiềm giục Vũ Như Tô đi trốn.Nàng cảnh báo “ông đừng mơ mộng nữa”. Vậy theo em, mơ mộng và vỡ mộng, phải chăng là tâm trạng đầy bi kịch của nghệ sĩ tài hoa Vũ Như Tô?
* Cái tài của Vũ Như Tô trong lớp kịch được thể hiện như thế nào?Qua tìm hiểu, em thấy gíâc mộng của Vũ Như Tô bắt đầu từ đâu?
* Trong cơn biến loạn, đâu là khoảnh khắc Vũ Như Tô nhận ra giấc mộng lớn đã tan tành? Tâm trạng của ông trong khoảnh khắc ấy?
+ Cái tài được ngợi ca đến mức siêu phàm, một thiên tài “ngàn năm chưa dễ có một”, “có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân”.
+ “ Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai để tô điểm nữa”, “đừng để phí tài trời”.
- Nhưng VNT vì quá khao khát đam mê chìm đắm trong cái đẹp mà trở nên mơ mộng, ảo vọng.
+ Gíâc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định xây CTĐ cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xd một công trình tô điểm cho đời.
+ Càng sáng suốt trong sáng tạo, thiết kế, thi công CTĐ, ông càng xa rời thực tế, càng ảo vọng.
+ Vũ Như Tô “rú lên” kinh hoàng và tuyệt vọng:
“Đốt thực rồi! Đốt thực rồi!... Ôi mộng lớn, Đan Thiềm, CT Đ!”

 Nỗi đau vỡ mộng hoá thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khắc khoải – Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường.
- Bi kịch VNT đã thức tỉnh:
ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở :
Mqh giữa nghệ thuật và cuộc sống- NGHỆ THUẬT PHẢI VỊ NHÂN SINH thì nghệ thuật mới tồn tại và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ.
* Đánh giá những thành công về nghệ thuật của đoạn trích?
D. Luyện tập :
Lời tựa đề của tác phẩm “…Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm” có ý nghĩa:
nói về mqh tương giao - đồng cảm của những người cùng yêu quý , trân trọng cái đẹp, cái tài giữa VNT – Đ.Thiềm – Nhà văn Ng.H.Tưởng.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Tửu
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)