Tuần 16. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Chia sẻ bởi Phạm Thị Thu Hương |
Ngày 10/05/2019 |
29
Chia sẻ tài liệu: Tuần 16. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
Giáo viên:
Phạm Thị Thu Hương
Tổ Ngữ Văn
TRƯỜNG THPT HOÀNG LỆ KHA
CHÀO MỪNG QUÍ THẦY CÔ VỀ DỰ GIỜ LỚP 11B11!
Tiết 63 - đọc văn
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
( Trích kịch “Vũ Như Tô”
của Nguyễn Huy Tưởng)
I. Tiểu dẫn :
1. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng
2. Vở kịch “ Vũ Như Tô” :
3. Vị trí đoạn trích ở hồi 5
II/ Đọc hiểu
1. Đọc và giải nghĩa từ khó :
2. Tìm hiểu văn bản:
a. Tìm hiểu các xung đột kịch trong đoạn trích:
+ Mâu thuẫn 1:mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng các phe cánh của chúng.
+ Mâu thuẫn 2 : Giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
b. Nhân vật Đan Thiềm và Vũ Như Tô :
b1. Nhân vật Đan Thiềm :
Nêu những hiểu biết của em về nhân vật Đan Thiềm?
Đan Thiềm là một cung nữ nhưng lại có “bệnh” đam mê , trân trọng, nâng niu cái đẹp, cái tài của Vũ Như Tô - một kiến trúc sư biết sáng tạo cái đẹp.
Đan Thiềm đã làm những gì để bảo vệ cái tài, cái đẹp?
Vì mê đắm cái đẹp đã khuyên Vũ Như Tô nhận lời xây đài
Vì cái tài mà Đan Thiềm không quản ngại những điều thị phi, quên cả nguy hiểm của bản thân để bảo vệ Vũ Như Tô ( “khi trước trốn đi thì ông nguy, bây giờ trốn đi thì ông thoát chết”)
Đan Thiềm là một người biết “ biệt nhỡn liên tài”- một người không mơ mộng mà tỉnh táo, thức thời, hiểu đời, hiểu người
Tâm trạng của Đan Thiềm khi nhận ra thất bại
của giấc mộng Cửu Trùng Đài được tái hiện như thế nào?
*Tâm trạng của Đan Thiềm khi nhận ra thất bại
của giấc mộng Cửu Trùng Đài:
Nàng đau đớn khi nghĩ đến sự sống chết của Vũ Như Tô.
+ Có đến 20 lần nàng thúc giục Vũ Như Tô
“ trốn đi, lánh đi, đi đi, chạy đi”.
+ Lời thúc giục vừa van xin, vừa khẩn thiết, quyết liệt:
“ Ông nghe tôi ! …. Đợi thời là thượng sách ! Đừng để phí tài trời. Trốn đi !”
- Đến khi “có trốn cũng không được nữa”, Đan Thiềm tìm mọi cách van xin tha tội cho Vũ Như Tô:
+ Đến khi “có trốn cũng không được nữa”,Đan Thiềm đã làm gì?
+ Có đến 4 lần nàng nhắc lại yêu cầu khẩn thiết đó.
+ Nàng sẵn sàng lấy tính mạng của mình để đánh đổi sự sống còn của Vũ Như Tô
“Đừng giết ông Cả . Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời. Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết”.
+ Kết thúc lớp kịch thứ VII, chỉ còn tiếng kêu thảng thốt,
đau đớn, nghẹn ngào, nức nở của Đan Thiềm:“Ông Cả! Đài lớn tanh tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt!”.
+ Kết thúc lớp kịch thứ VII, Đan Thiềm đã có tâm trạng như thế nào?
+ Những đổ vỡ của một giấc mộng lớn : ông cả, Đài lớn, cái tài, cái đẹp, tất cả đền tan tành trong cơn biến loạn.
=> Mọi cố gắng giữ gìn, bảo vệ không thành. Câu nói cuối cùng của Đan Thiềm là lời vĩnh biệt mãi mãi Cửu Trùng Đài –vĩnh biệt một giấc mộng lớn trong máu và nước mắt- bi kịch của một tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài”
b2. Nhân vật Vũ Như Tô :
-Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài ba.
Cái tài của ông được ngợi ca đến mức siêu phàm, một thiên tài
+“ngàn năm chưa dễ có một”, “có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân”.
+“ Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai để tô điểm nữa”, “đừng để phí tài trời”.
-Vũ Như Tô vì quá khao khát đam mê chìm đắm trong cái đẹp mà trở nên mơ mộng, ảo vọng: xây dựng một công trình tô điểm cho đời - xa rời thực tế,quên lợi ích của nhân dân.
Vũ Như Tô được nhắc đến là người như thế nào?
Tại sao Vũ Như Tô lại trở nên mơ mộng, ảo vọng?
Ông mơ mộng điều gì?
Trong thời khắc biến loạn dữ dội, Vũ Như Tô đã suy nghĩ gì?
-Trong thời khắc biến loạn dữ dội, Vũ Như Tô vẫn không tỉnh,
vẫn say sưa với giấc mơ Cửu Trùng Đài:
+ “ Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông…”, ông vẫn cho là “họ hiểu nhầm”.
+ Tận mắt chứng kiến cảnh đốt phá, nghe tiếng quân reo tìm
mình phanh thây, ông vẫn cho là điều “vô lý”.
+ Bị bắt dẫn về trình chủ tướng, ông hy vọng có thể “phân trần”,
“giảng giải cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta”
Khi Cửu Trùng Đài bị cháy, Vũ Như Tô đã có
tâm trạng như thế nào?
Chỉ đến khi Cửu Trùng Đài bị cháy, Vũ Như Tô
mới nhận ra sự thực về giấc mộng lớn đã tan tành:
+ Vũ Như Tô “rú lên” kinh hoàng và tuyệt vọng “Đốt thực rồi!
Đốt thực rồi!.. Ôi mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài!”
Nỗi đau vỡ mộng hoá thành tiếng kêu bi thiết, não nùng,
khắc khoải – Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường.
Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh
chúng ta điều gì?
* Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề
muôn thuở : Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống
NGHỆ THUẬT PHẢI VỊ NHÂN SINH thì nghệ thuật mới tồn tại
và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ.
- ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao.
- xung đột kịch thể hiện tính cách, tâm trạng nhân vật (ngôn ngữ và hành động) rất thành công.
- Các lớp kịch ngắn, thay đổi liên tục, lời thoại gấp gáp, các tiếng reo, tiếng thét…tạo một không gian bạo lực kinh hoàng.
- đặt nhân vật trong không gian cung cấm với các tên đất , tên người cụ thể - vở kịch hoành tráng, có không khí lịch sử.
C. Nghệ thuật xây dựng vở kịch
Đánh giá những thành công về nghệ thuật của đoạn trích?
Ý nghĩa của bi kịch Vũ Như Tô?
III. TỔNG KẾT
Tác phẩm đặt ra vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thưở về mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật
cao siêu thuần tuý với lợi ích của nhân dân.
-Những đặc sắc về kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch
điêu luyện, dùng ngôn ngữ và hành động của nhân vật để
khắc hoạ tính cách, miêu tả tâm trạngdẫn dắt và đẩy xung đột
đến cao trào.
IV. LUYỆN TẬP
Lời tựa đề của tác phẩm “…Cầm bút chẳng qua cùng
một bệnh với Đan Thiềm” có ý nghĩa gì?
Lời tựa đề của tác phẩm “…Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh
với Đan Thiềm” có ý nghĩa nói về mối quan hệ tương giao –đồng
cảm của những người cùng yêu quý , trân trọng cái đẹp,cái tài giữa
Vũ Như Tô – Đan Thiềm – Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
Phạm Thị Thu Hương
Tổ Ngữ Văn
TRƯỜNG THPT HOÀNG LỆ KHA
CHÀO MỪNG QUÍ THẦY CÔ VỀ DỰ GIỜ LỚP 11B11!
Tiết 63 - đọc văn
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
( Trích kịch “Vũ Như Tô”
của Nguyễn Huy Tưởng)
I. Tiểu dẫn :
1. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng
2. Vở kịch “ Vũ Như Tô” :
3. Vị trí đoạn trích ở hồi 5
II/ Đọc hiểu
1. Đọc và giải nghĩa từ khó :
2. Tìm hiểu văn bản:
a. Tìm hiểu các xung đột kịch trong đoạn trích:
+ Mâu thuẫn 1:mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng các phe cánh của chúng.
+ Mâu thuẫn 2 : Giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
b. Nhân vật Đan Thiềm và Vũ Như Tô :
b1. Nhân vật Đan Thiềm :
Nêu những hiểu biết của em về nhân vật Đan Thiềm?
Đan Thiềm là một cung nữ nhưng lại có “bệnh” đam mê , trân trọng, nâng niu cái đẹp, cái tài của Vũ Như Tô - một kiến trúc sư biết sáng tạo cái đẹp.
Đan Thiềm đã làm những gì để bảo vệ cái tài, cái đẹp?
Vì mê đắm cái đẹp đã khuyên Vũ Như Tô nhận lời xây đài
Vì cái tài mà Đan Thiềm không quản ngại những điều thị phi, quên cả nguy hiểm của bản thân để bảo vệ Vũ Như Tô ( “khi trước trốn đi thì ông nguy, bây giờ trốn đi thì ông thoát chết”)
Đan Thiềm là một người biết “ biệt nhỡn liên tài”- một người không mơ mộng mà tỉnh táo, thức thời, hiểu đời, hiểu người
Tâm trạng của Đan Thiềm khi nhận ra thất bại
của giấc mộng Cửu Trùng Đài được tái hiện như thế nào?
*Tâm trạng của Đan Thiềm khi nhận ra thất bại
của giấc mộng Cửu Trùng Đài:
Nàng đau đớn khi nghĩ đến sự sống chết của Vũ Như Tô.
+ Có đến 20 lần nàng thúc giục Vũ Như Tô
“ trốn đi, lánh đi, đi đi, chạy đi”.
+ Lời thúc giục vừa van xin, vừa khẩn thiết, quyết liệt:
“ Ông nghe tôi ! …. Đợi thời là thượng sách ! Đừng để phí tài trời. Trốn đi !”
- Đến khi “có trốn cũng không được nữa”, Đan Thiềm tìm mọi cách van xin tha tội cho Vũ Như Tô:
+ Đến khi “có trốn cũng không được nữa”,Đan Thiềm đã làm gì?
+ Có đến 4 lần nàng nhắc lại yêu cầu khẩn thiết đó.
+ Nàng sẵn sàng lấy tính mạng của mình để đánh đổi sự sống còn của Vũ Như Tô
“Đừng giết ông Cả . Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời. Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết”.
+ Kết thúc lớp kịch thứ VII, chỉ còn tiếng kêu thảng thốt,
đau đớn, nghẹn ngào, nức nở của Đan Thiềm:“Ông Cả! Đài lớn tanh tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt!”.
+ Kết thúc lớp kịch thứ VII, Đan Thiềm đã có tâm trạng như thế nào?
+ Những đổ vỡ của một giấc mộng lớn : ông cả, Đài lớn, cái tài, cái đẹp, tất cả đền tan tành trong cơn biến loạn.
=> Mọi cố gắng giữ gìn, bảo vệ không thành. Câu nói cuối cùng của Đan Thiềm là lời vĩnh biệt mãi mãi Cửu Trùng Đài –vĩnh biệt một giấc mộng lớn trong máu và nước mắt- bi kịch của một tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài”
b2. Nhân vật Vũ Như Tô :
-Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài ba.
Cái tài của ông được ngợi ca đến mức siêu phàm, một thiên tài
+“ngàn năm chưa dễ có một”, “có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân”.
+“ Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai để tô điểm nữa”, “đừng để phí tài trời”.
-Vũ Như Tô vì quá khao khát đam mê chìm đắm trong cái đẹp mà trở nên mơ mộng, ảo vọng: xây dựng một công trình tô điểm cho đời - xa rời thực tế,quên lợi ích của nhân dân.
Vũ Như Tô được nhắc đến là người như thế nào?
Tại sao Vũ Như Tô lại trở nên mơ mộng, ảo vọng?
Ông mơ mộng điều gì?
Trong thời khắc biến loạn dữ dội, Vũ Như Tô đã suy nghĩ gì?
-Trong thời khắc biến loạn dữ dội, Vũ Như Tô vẫn không tỉnh,
vẫn say sưa với giấc mơ Cửu Trùng Đài:
+ “ Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông…”, ông vẫn cho là “họ hiểu nhầm”.
+ Tận mắt chứng kiến cảnh đốt phá, nghe tiếng quân reo tìm
mình phanh thây, ông vẫn cho là điều “vô lý”.
+ Bị bắt dẫn về trình chủ tướng, ông hy vọng có thể “phân trần”,
“giảng giải cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta”
Khi Cửu Trùng Đài bị cháy, Vũ Như Tô đã có
tâm trạng như thế nào?
Chỉ đến khi Cửu Trùng Đài bị cháy, Vũ Như Tô
mới nhận ra sự thực về giấc mộng lớn đã tan tành:
+ Vũ Như Tô “rú lên” kinh hoàng và tuyệt vọng “Đốt thực rồi!
Đốt thực rồi!.. Ôi mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài!”
Nỗi đau vỡ mộng hoá thành tiếng kêu bi thiết, não nùng,
khắc khoải – Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường.
Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh
chúng ta điều gì?
* Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề
muôn thuở : Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống
NGHỆ THUẬT PHẢI VỊ NHÂN SINH thì nghệ thuật mới tồn tại
và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ.
- ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao.
- xung đột kịch thể hiện tính cách, tâm trạng nhân vật (ngôn ngữ và hành động) rất thành công.
- Các lớp kịch ngắn, thay đổi liên tục, lời thoại gấp gáp, các tiếng reo, tiếng thét…tạo một không gian bạo lực kinh hoàng.
- đặt nhân vật trong không gian cung cấm với các tên đất , tên người cụ thể - vở kịch hoành tráng, có không khí lịch sử.
C. Nghệ thuật xây dựng vở kịch
Đánh giá những thành công về nghệ thuật của đoạn trích?
Ý nghĩa của bi kịch Vũ Như Tô?
III. TỔNG KẾT
Tác phẩm đặt ra vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thưở về mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật
cao siêu thuần tuý với lợi ích của nhân dân.
-Những đặc sắc về kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch
điêu luyện, dùng ngôn ngữ và hành động của nhân vật để
khắc hoạ tính cách, miêu tả tâm trạngdẫn dắt và đẩy xung đột
đến cao trào.
IV. LUYỆN TẬP
Lời tựa đề của tác phẩm “…Cầm bút chẳng qua cùng
một bệnh với Đan Thiềm” có ý nghĩa gì?
Lời tựa đề của tác phẩm “…Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh
với Đan Thiềm” có ý nghĩa nói về mối quan hệ tương giao –đồng
cảm của những người cùng yêu quý , trân trọng cái đẹp,cái tài giữa
Vũ Như Tô – Đan Thiềm – Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Thị Thu Hương
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)