Tuần 13. Một số thể loại văn học: Thơ, truyện
Chia sẻ bởi hồ văn mứ |
Ngày 10/05/2019 |
39
Chia sẻ tài liệu: Tuần 13. Một số thể loại văn học: Thơ, truyện thuộc Ngữ văn 11
Nội dung tài liệu:
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA NGỮ VĂN
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI II
TÁC GIẢ: Nguyễn Bính
- Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính.
Thuở nhỏ NguyễnBính đuợc học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm.
Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà...
Cuộc đời tác giả
Hình 1 : nhà thơ Ngyễn Bính
- Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính.
Thuở nhỏ NguyễnBính đuợc học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm.
Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà...
Hình 1 : nhà thơ Ngyễn Bính
- Những năm đầu thập niên 40, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào Miền Nam. Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết.
- Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Miền Nam.
- Đến Năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà văn ở Hà Nội một thời gian.
- Năm 1956, Ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ TRĂM HOA (nguyên văn trong tài liệu của Hội Nhà văn);
- Đến năm 1958, Nguyễn Bính chuyển về tỉnh nhà Nam Định và phục vụ trong Ty Văn Hoá Nam Định cho đến ngày ông từ giã cõi đờị.
- Nguyễn Bính mất ngày 20-1-1966, những ngày cuối năm Ất Tị.
Suốt 30 năm sinh hoạt văn nghệ, nhà thơ đã sáng tác nhiều thể loại như làm thơ, viết kịch, truyện thợ.. Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi ca. Ông đã xuất bản được 20 tác phẩm đủ loại.
- Nguyễn Bính làm thơ từ năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi đã làm được gần 1000 bài.
II. SỰ NGHIỆP
Hình 2 : Một tập thơ của Nguyễn Bính
Năm 1937, bài thơ Cô hái mơ được dư luận chú ý, Nguyễn Trọng Bính được ký là Nguyễn Bính.
- Năm 1942, Nguyễn Bính được in liên tiếp 3 tập thơ: Người con gái ở lầu hoa, mười hai bến nước, mây tần.
- Năm 1944, Nguyễn Bính viết truyện Thạch sương bồ, không đất cắm dùi, truyện thơ cây đàn tì bà dài 1550 câu.
- 1946- 1954, ông cho ra mắt Tập thơ yêu nước, viết tùy bút với bút hiệu Kiều Mộc, bài thơ tiểu đoàn 307 và tập thơ sóng biển cỏ được phổ nhạc.
- Năm 1953, Nguyễn Bính cho đời các tập thơ yêu nước Ông lão mài gươm, trăng kia đã đứng ngang đầu, những dòng tâm huyết, mừng Đảng
- Năm 1955, ông viết liên tiếp 3 tập thơ: Đồng Tháp Mười, trả ta về, Gửi người vợ miền Nam, hoài niệm về một thời đầy nhiệt huyết và khát vọng sum vầy với gia đình.
- Cũng trong năm 1955 xuất bản Cách làm thơ lục bát.
- Năm 1957, sáng tác truyện thơ tiếng trống đêm xuân, trông bóng cờ bay, nước giếng thơi.
- Năm 1961, viết vở chèo Cô Son
- Năm 1960,ông viết hai tập thơ Tình nghĩa đôi ta, Đêm sao sáng.
CẢM ƠN CÁC BẠN VÀ QUÝ CÔ ĐÃ QUAN TÂM THEO DÕI !
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA NGỮ VĂN
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI II
TÁC GIẢ: Nguyễn Bính
- Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính.
Thuở nhỏ NguyễnBính đuợc học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm.
Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà...
Cuộc đời tác giả
Hình 1 : nhà thơ Ngyễn Bính
- Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính.
Thuở nhỏ NguyễnBính đuợc học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm.
Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà...
Hình 1 : nhà thơ Ngyễn Bính
- Những năm đầu thập niên 40, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào Miền Nam. Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết.
- Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Miền Nam.
- Đến Năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà văn ở Hà Nội một thời gian.
- Năm 1956, Ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ TRĂM HOA (nguyên văn trong tài liệu của Hội Nhà văn);
- Đến năm 1958, Nguyễn Bính chuyển về tỉnh nhà Nam Định và phục vụ trong Ty Văn Hoá Nam Định cho đến ngày ông từ giã cõi đờị.
- Nguyễn Bính mất ngày 20-1-1966, những ngày cuối năm Ất Tị.
Suốt 30 năm sinh hoạt văn nghệ, nhà thơ đã sáng tác nhiều thể loại như làm thơ, viết kịch, truyện thợ.. Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi ca. Ông đã xuất bản được 20 tác phẩm đủ loại.
- Nguyễn Bính làm thơ từ năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi đã làm được gần 1000 bài.
II. SỰ NGHIỆP
Hình 2 : Một tập thơ của Nguyễn Bính
Năm 1937, bài thơ Cô hái mơ được dư luận chú ý, Nguyễn Trọng Bính được ký là Nguyễn Bính.
- Năm 1942, Nguyễn Bính được in liên tiếp 3 tập thơ: Người con gái ở lầu hoa, mười hai bến nước, mây tần.
- Năm 1944, Nguyễn Bính viết truyện Thạch sương bồ, không đất cắm dùi, truyện thơ cây đàn tì bà dài 1550 câu.
- 1946- 1954, ông cho ra mắt Tập thơ yêu nước, viết tùy bút với bút hiệu Kiều Mộc, bài thơ tiểu đoàn 307 và tập thơ sóng biển cỏ được phổ nhạc.
- Năm 1953, Nguyễn Bính cho đời các tập thơ yêu nước Ông lão mài gươm, trăng kia đã đứng ngang đầu, những dòng tâm huyết, mừng Đảng
- Năm 1955, ông viết liên tiếp 3 tập thơ: Đồng Tháp Mười, trả ta về, Gửi người vợ miền Nam, hoài niệm về một thời đầy nhiệt huyết và khát vọng sum vầy với gia đình.
- Cũng trong năm 1955 xuất bản Cách làm thơ lục bát.
- Năm 1957, sáng tác truyện thơ tiếng trống đêm xuân, trông bóng cờ bay, nước giếng thơi.
- Năm 1961, viết vở chèo Cô Son
- Năm 1960,ông viết hai tập thơ Tình nghĩa đôi ta, Đêm sao sáng.
CẢM ƠN CÁC BẠN VÀ QUÝ CÔ ĐÃ QUAN TÂM THEO DÕI !
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: hồ văn mứ
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)